Một quốc gia công nghiệp vĩ đại bị hệ
thống tín dụng khống chế một cách cứng nhắc. Hệ thống tín dụng này tập trung
cao độ. Sự phát triển của quốc gia này và mọi hoạt động (kinh tế) của chúng ta
hoàn toàn nằm trong tay một sốt người. Chúng ta đã rơi vào thế bị thống trị cam
go nhất - một kiểu khống chế triệt để nhất trên thế giới. Chính phủ không còn
có ý kiến tự do nữa, không còn quyền định tội nữa, không còn là chinh phủ được
lựa chọn bởi đa số người dân nữa, và chính phủ này vận hành dưới sự khống chế của
một nhóm người quyền lực. Rất nhiều nhân sĩ công thương nghiệp của quốc gia này
đều đang lo sợ một điều gì đó. Họ biết thứ quyền lực vô hình này được tổ chức
theo cách như vậy, tĩnh lặng vô tình như vậy, phủ khắp như vậy, khoá chặt lẫn
nhau như vậy, triệt để và toàn diện như vậy, đến nỗi họ không dám công khai lên
án thứ quyền lực này.
Woodrow
Wilson - tổng thống thứ 28 Hoa Kỳ
Đa số các
quan chức của chính phủ Trung Quốc có thể sẽ nghĩ rằng, đương nhiên chính phủ Mỹ
phát hành ra đồng đô-la, nhưng trên thực tế, về cơ bản, chính phủ Mỹ không có
quyền phát hành tiền tệ! Năm 1963, sau khi tổng thống Kennedy bị ám sát, chính
phủ Mỹ cuối cùng đã mất đi quyền phát hành “đô-la Mỹ bạc trắng”. Muốn có được đồng
đô-la, chính phủ Mỹ cần phải đem công trái của người dân Mỹ thế chấp cho Cục Dự
trữ Liên bang, còn “phiếu dự trữ liên bang” do Cục Dự trữ Liên bang Mỹ phát hành
chính là đồng “đô-la Mỹ”.
Đối với giới
học thuật và truyền thông Mỹ, tính chất và lai lịch của “Cục Dự trữ Liên bang Mỹ“
được hiểu là một “vùng cấm”. Hằng ngày, giới truyền thông Mỹ có thể bàn tán về
vô vàn vấn đề chẳng có chút quan trọng gì kiểu như “hôn nhân đồng tính”, nhưng
những vấn đề quan trọng liên quan đến việc ai đang khống chế chuyện phát hành
tiền tệ hay lợi ích chi trả lợi tức các khoản vay cá nhân thì lại hầu như chẳng
được đả động đến.
Đọc đến đây,
nếu bạn có cảm giác kinh ngạc, vấn đề sẽ trở nên quan trọng, trong khi có thể bạn
lại không hay biết.
Chương này sẽ
nói về bí mật của việc thành lập Cục Dự trữ Liên bang Mỹ - vấn đề đã bị giới
truyền thông Mỹ cố ý “bỏ qua”. Khi dùng một chiếc kính hiển vi soi xét kỹ giây
phút cuối cùng của một sự kiện trọng đại ảnh hưởng đến tiến trình lịch sử thế
giới, chúng ta có thể hiểu rằng, diễn biến của sự việc sẽ chính xác đến mức ta
phải lấy tiếng tích tắc của đồng hồ làm đơn vị đo lường.
Ngày 23
tháng 12 năm 1913, chính phủ dân cử của Mỹ cuối cùng đã bị quyền lực đồng tiền
lật đổ.
1. Đảo
Jekyll thần bí: cái nôi của Cục Dự trữ Liên bang Mỹ
Đêm ngày 22
tháng 11 năm 1910, một đoàn tàu rèm che kín mít chậm rãi tiến về miền Nam. Những
người ngồi trong toa tàu đều là những nhà tài phiệt ngân hàng quan trọng nhất
nước Mỹ, và không một ai trong số họ biết được mục đích chuyến đi này. Điểm dừng
cuối cùng của đoàn tàu là đảo Jekyll thuộc bang Georgia xa mấy trăm dặm.
Jekyll là một
quần đảo thuộc quyền sở hữu của những nhân vật giàu có siêu hạng ở Mỹ. Các thế lực
tai to mặt lớn mà đứng đầu là J.P. Morgan đã thành lập một câu lạc bộ đi săn
trên đảo Jekyll. Một phần sáu của cải thế giới dồn vào tay các hội viên của câu
lạc bộ này, và tư cách hội viên chỉ có thể kế thừa chứ không thể chuyển nhượng.
Lúc này, câu lạc bộ nhận được thông báo có người cần sử dụng hội sở của câu lạc
bộ này trong khoảng hai tuần, và như vậy, trong khoảng thời gian này, tất cả
các thành viên không được phép sử dụng hội sở. Toàn bộ nhân viên phục vụ của hội
sở đều là những người được bố trí đến từ đất liền, và khi phục vụ các vị khách
VIP này, họ chỉ được xưng tên chứ tuyệt đối không được sử dụng họ. Trong phạm
vi 50 dặm, hội sở được đảm bảo trọng xung quanh không có sự xuất hiện của bất cứ
tay săn tin nào.
Ngay sau khi
công việc chuẩn bị hoàn tất, những vị khách này bắt đầu xuất hiện tại hội sở.
Tham gia hội nghị tuyệt mật này có:
- Nelson
Aldrich, Thượng nghị sĩ, Chủ tịch Uỷ ban tiền tệ quốc gia (National Monetary
Commission), ông ngoại của Nelson Rockefeller.
- A. Piatt
Andrew, trợ lý Bộ trưởng Bộ tài chính Mỹ.
- Frank
Vanderlip, Chủ tịch National City Bank.
- Henry P.
Davison, cổ đông cao cấp của công ty J.P. Morgan.
- Charles D.
Norton, Chủ tịch First National Bank
- Benjamin
Strong, trợ lý của J.P. Morgan.
Ngoài ra còn
có Paul Warburg - một công dân di cư gốc Do Thái đến từ Đức. Năm 1901, Paul đến
Mỹ và hùn một khoản vốn lớn vào công ty Kuhn Loeband. Ông là đại diện của dòng
họ Rothschild ở Anh và Pháp đồng thời đảm nhận chức tổng công trình sư của Cục
Dự trữ Liên bang Mỹ kiêm chủ tịch đầu tiên Cục Dự trữ Liên bang Mỹ.
Những nhân vật
quan trọng này đến hòn đảo nhỏ hẻo lánh mà chẳng có hứng thú gì với việc săn bắn.
Họ đến đây với một nhiệm vụ chủ yếu là khởi thảo một văn kiện quan trọng: Dự luật
Dự trữ Liên bang (Federal Reserve Act).
Paul Warburg
là một cao thủ về lĩnh vực ngân hàng, tinh thông hầu như mọi khâu nhỏ trong hoạt
động tài chính.
Nếu có ai đó
thắc mắc với các câu hỏi cần giải đáp, Paul không chỉ nhẫn nại trả lời mà còn
giảng giải không ngớt về nguồn gốc lịch sử sâu xa của từng khái niệm một cách
chi tiết. Ai cũng khâm phục kiến thức uyên bác trong lĩnh vực ngân hàng của
ông. Paul hiển nhiên trở thành người khởi thảo đồng thời là người giải đáp mọi
vấn đề trong việc xây dựng văn kiện.
Nelson
Aldrich là người ngoại đạo duy nhất trong số những nhân vật có mặt ở đây. Ông
ta phụ trách việc chỉnh sửa nội dung văn kiện sao cho phù hợp với yêu cầu chính
trị để có thể được chấp nhận ở Quốc hội.
Những người
khác đại diện cho lợi ích của các tập đoàn ngân hàng khác nhau. Họ tiến hành
tranh luận kịch liệt suốt 9 ngày liền xung quanh chi tiết phương án mà Paul đề
xuất, và cuối cùng đã đi đến thống nhất.
Do cuộc khủng
hoảng ngân hàng năm 1907 mà hình ảnh của các nhà tài phiệt ngân hàng không còn
mấy đẹp đẽ trong mắt người dân Mỹ. Điều này khiến cho đa số nghị sĩ quốc hội
không dám công khai ủng hộ dự luật do các nhà tài phiệt ngân hàng tham gia lập
ra. Vì vậy, những người này không quản ngại đường xa vạn dặm, lặn lội từ New
York đến hòn đảo hoang vắng này để tham gia khởi thảo văn kiện.
Hơn nữa, cái
tên Ngân hàng trung ương nghe có vẻ quá khoa trương. Từ thời tổng thống
Jefferson đến nay, tên gọi của Ngân hàng trung ương đều có dính dáng đến âm mưu
của các nhà tài phiệt ngân hàng quốc tế Anh, vì thế Paul kiến nghị dùng tên “Cục
Dự trữ Liên bang” (Federal Reserve System) để che tai đậy mắt thiên hạ. Thế
nhưng, trên thực tế, Cục Dự trữ Liên bang có đầy đủ mọi chức năng của một Ngân
hàng trung ương, và cũng giống như Ngân hàng Anh, Cục Dự trữ Liên bang Mỹ được
thiết kế theo mô hình tư nhân nắm giữ cổ phần, và ngân hàng sẽ thu được lợi ích
rất lớn từ việc đó.
Điểm khác biệt
giữa Cục Dự trữ Liên bang và Ngân hàng thứ nhất hay Ngân hàng thứ hai là, 20% cổ
phần vốn có của chính phủ trong cơ cấu cổ phần của Cục Dự trữ Liên bang đã bị lấy
mất, và như vậy, nó sẽ trở thành một ngân hàng trung ương tư hữu “thuần tuý”.
Nhằm che đậy
bản chất thực của Cục Dự trữ Liên bang Mỹ cũng như để trả lời cho câu hỏi ai là
kẻ khống chế cơ quan này, Paul đã khéo léo đề xuất ý kiến: “Quốc hội khống chế
Cục Dự trữ Liên bang Mỹ, chính phủ nắm giữ vai trò đại biểu trong hội đồng quản
trị, nhưng đa số thành viên của hội đồng quản trị là do hiệp hội ngân hàng trực
tiếp hoặc gián tiếp khống chế”.
Về sau,
trong phiên bản cuối cùng, Paul đã đổi thành “thành viên của Hội đồng quản trị
do tổng thống Mỹ bổ nhiệm”, thế nhưng, chức năng thực sự của Hội đồng quản trị
do Hội đồng Tư vấn Liên bang (Federal Advisory Council) khống chế, và cùng với
Hội đồng quản trị, Hội đồng tư vấn liên bang sẽ định kỳ mở hội nghị “thảo luận”
công việc.
Thành viên của
Hội đồng tư vấn Liên bang sẽ do Chủ tịch Hội đồng quản trị của 12 ngân hàng dự
trữ liên bang quyết định. Điểm này đã được lấp liếm trước công chúng.
Một vấn đề
nan giải khác mà Paul phải đối phó là làm thế nào để che giấu sự thực rằng, nhân
vật chịu trách nhiệm chủ trì Cục Dự trữ Liên bang là một chuyên gia kỳ cựu của
ngân hàng New York. Từ thế kỷ 19 đến nay, vì phải gánh chịu nhiều thiệt hại do
nạn khủng hoảng ngân hàng gây nên, hầu hết các thương nhân, chủ trang trại vừa
và nhỏ của miền trung tây nước Mỹ ghét cay ghét đắng các chuyên gia ngân hàng đến
từ miền đông. Còn các nghị sĩ của những khu vực này cũng không thể ủng hộ ngân
hàng trung ương nếu như nó được chủ trì bởi một nhân vật nào đó từ ngân hàng
New York. Vì vậy mà Paul đã thiết kế nên một phương án giải quyết tài tình để
12 ngân hàng địa phương thuộc Cục Dự trữ Liên bang có thể tạo thành một hệ thống
hoàn hảo. Ngoài giới ngân hàng, rất ít người biết được rằng, về lý thuyết, việc
phát hành tiền tệ và tín dụng của Mỹ được tập trung ở New York, dù trên thực tế,
điều này không hề diễn ra ở New York, và màn kịch này chẳng qua là do các ngân
hàng thuộc Cục Dự trữ Liên bang dàn dựng nên mà thôi. Còn một điểm nữa thể hiện
sự suy nghĩ sâu xa của Paul - đặt trụ sở của Cục Dự trữ Liên bang Mỹ tại
Washington - trung tâm chính trị của nước Mỹ, trong khi New York mới là trung
tâm tài chính lớn của đất nước này. Mối lo ngại chính của ông ta xuất phát từ sự
kỳ thị của dân chúng đối với các nhà ngân hàng đến từ New York.
Điều bận tâm
thứ tư của Paul là làm thế nào tìm ra nhân viên quản lý cho 12 nhà ngân hàng địa
phương trực thuộc Cục Dự trữ Liên bang Mỹ. Kinh nghiệm làm việc trong Quốc hội
của Nelson Aldrich cuối cùng đã giúp ông tìm được đất dụng võ. Ông chỉ ra rằng,
các nghị sĩ miền trung tây nước Mỹ thường tỏ rõ sự thù địch với ngân hàng New
York, và để tránh mất kiểm soát, tổng thống phải là người đứng ra bổ nhiệm vị
trí chủ tịch ngân hàng địa phương và đó không phải là nhiệm vụ của Quốc hội.
Nhưng điều này đã tạo nên một lỗ hổng pháp luật. Điều 8 chương 1 của Hiến pháp
Mỹ quy định rõ ràng rằng, Quốc hội chịu trách nhiệm phụ trách việc quản lý phát
hành tiền tệ. Việc Cục Dự trữ Liên bang gạt Quốc hội ra ngoài rõ ràng đã vi phạm
Hiến pháp. Về sau, quả nhiên điểm này đã trở thành cái cớ để các nghị sĩ chĩa
mũi dùi công kích Cục Dự trữ Liên bang Mỹ. Sau khi được dàn xếp chu đáo, dự luật
này nghiễm nhiên xuất hiện với hình thức mô phỏng theo sự phân quyền và cân bằng
kiểm soát của hiến pháp Mỹ. Tổng thống bổ nhiệm, quốc hội thẩm duyệt, nhân sĩ độc
lập nhậm chức chủ tịch Hội đồng quản trị, còn các nhà ngân hàng đảm nhận vị trí
cố vấn, quả là một thiết kế hoàn hảo!
2. Bảy nhà
tài phiệt phố Wall: Những người điều khiển hậu trường của Cục Dự trữ Liên bang
Bảy nhân vật quan trọng của phố Wall
hiện tại đã khống chế đại bộ phận các ngành công nghiệp cơ bản cũng như nguồn vốn
của Mỹ, bao gồm: J.P. Morgan, James J. Hill, George Berk (Chủ tịch First
National Bank) trực thuộc Tập đoàn Morgan; bốn người còn lại gồm John
Rockefeller, William Rockefeller, James Stillman (Chủ tịch National City Bank),
Jacob Schiff (công ty Kuhn Loeb) trực thuộc Tập đoàn Standard Oil Cities Bank.
Đầu mối trung tâm về vốn do họ tạo nên đang trở thành thế lực chủ yếu khống chế
nước Mỹ.
John Moody
- người sáng lập hệ thống đánh giá đầu tư Moody nổi tiếng, 1911
Bảy vị tai
to mặt lớn của phố Wall chính là những người thực sự điều khiển việc thành lập
Cục Dự trữ Liên bang Mỹ. Sự phối hợp nhịp nhàng bí mật giữa họ với gia tộc
Rothschild của châu Âu cuối cùng đã tạo nên một phiên bản của Ngân hàng Anh tại
Mỹ.
3. Sự ra đời
và phát triển của dòng họ Morgan
Tiền thân của
Ngân hàng Morgan là công ty George Peabody của Anh vốn không được nhiều người
biết đến. George Peabody vốn là một thương gia chuyên buôn hoa quả sấy khô của
vùng Baltimore (Mỹ). Sau khi phất lên nhờ một số thương vụ nhỏ, vào năm 1835,
George đến London. Chàng thương gia trẻ nhận thấy ngành tài chính là một lĩnh vực
béo bở, bèn quyết định hùn vốn với một số người nữa để mở ngân hàng Merchant
Bank. Đây là một nghiệp vụ “tài chính cao cấp” rất hợp thời khi đó, khách hàng
chủ yếu bao gồm chính phủ, các công ty lớn và những người rất giàu có. Họ cung
cấp các khoản vay cho thương mại quốc tế, phát hành cổ phiếu và công trái, kinh
doanh các loại hàng hoá chủ lực, và đây chính là tiền thân của ngân hàng đầu tư
ngày nay.
Thông qua sự
giới thiệu của công ty anh em nhà Brown thuộc chi nhánh Anh, George Peabody đã
nhanh chóng gia nhập vào giới tài chính Anh. Không lâu sau, George Peabody hết
sức kinh ngạc khi nhận được thư mời đến dự tiệc từ nam tước Nathan Rothschild.
Đối với chàng thương gia trẻ này thì vinh hạnh đó chẳng khác nào niềm hãnh diện
của một tín đồ Thiên Chúa giáo được Giáo hoàng tiếp kiến.
Nathan đã đi
thẳng vào vấn đề bằng việc đề nghị George Peabody giúp mình làm đại diện giao tế
bí mật của dòng họ Rothschild. Tuy nổi tiếng là giàu có với khối tài sản khổng
lồ, song dòng họ Rothschild vẫn bị nhiều người ở châu Âu căm ghét và coi thường
vì thường lừa gạt cưỡng đoạt tài sản của dân chúng. Tầng lớp quý tộc ở London vốn
không thèm sống chung cùng hàng ngũ với Nathan, đã năm lần bảy lượt thẳng thừng
từ chối lời mời của anh em dòng họ này. Dù đã tạo ra thế lực rất mạnh ở Anh,
nhưng gia tộc Rothschild luôn có cảm giác của kẻ ngồi “chiếu dưới” vì bị giới
quý tộc cô lập. Một nguyên nhân khác khiến Nathan chọn George Peabody vì ông ta
là người khiêm tốn nhã nhặn, tư cách khá tốt, lại là người Mỹ, sau này còn có
thể dùng vào việc lớn.
Đương nhiên
là George Peabody hồ hởi đón nhận lời đề nghị của Nathan. Toàn bộ mọi kinh phí
giao tế đều do Nathan chi trả, công ty của George Peabody nhanh chóng trở thành
trung tâm giao tế nổi tiếng London. Đặc biệt là vào ngày 4 tháng 7 hàng năm, tiệc
mừng nhân ngày lễ độc lập nước Mỹ đều được tổ chức tại nhà George Peabody và trở
thành một sự kiện quan trọng trong giới quý tộc London. Đám khách khứa cũng khó
mà hình dung nổi, vì sao một doanh nhân hết sức bình thường mấy năm trước lại
có thể cáng đáng nổi những khoản phí chiêu đãi trong những bữa tiệc hoành tráng
và xa xỉ kia.
Mãi đến năm
1854, George Peabody vẫn chỉ là một ông chủ ngân hàng nhỏ với khoản tài sản trị
giá một triệu bảng Anh. Tuy nhiên, chỉ trong thời gian 6 năm ngắn ngủi sau đó,
khối tài sản của vị thương gia này đã đạt mức 20 triệu bảng Anh và biến ông trở
thành ông chủ nhà băng có máu mặt ở Mỹ. Trong thời gian diễn ra cuộc khủng hoảng
kinh tế năm 1857 tại Mỹ do dòng họ Rothschild giật dây, George Peabody đã dốc hết
tiền đầu tư vào công trái đường sắt và công trái chính phủ Mỹ trong khi các ông
chủ nhà băng Anh đột nhiên bán tống bán tháo tất cả công trái có dính dáng đến
Mỹ. Cũng trong giai đoạn này, George Peabody lâm vào cảnh khó khăn nghiêm trọng.
Điều kỳ lạ là khi George mấp mé bên bờ vực phá sản, Ngân hàng Anh giống như
thiên sứ từ trên trời rơi xuống đã ngay lập tức cung cấp cho ông ta một khoản
vay tín dụng trị giá 800 nghìn bảng Anh. Chính điều này đã giúp George phục hồi
nhanh chóng. Và thế là, chẳng hiểu sao, một người cẩn trọng như George Peabody
lại quyết định mua vào một lượng lớn các loại công trái đang bị các nhà đầu tư
Mỹ bán đổ bán tháo như rác rưởi.
Cuộc khủng
hoảng năm 1857 hoàn toàn không giống với cuộc suy thoái năm 1837. Chỉ trong một
năm thì nền kinh tế Mỹ đã hoàn toàn thoát khỏi bóng mây của sự suy thoái. Kết
quả là các loại công trái Mỹ đã giúp ông nhanh chóng trở thành người siêu giàu
có - một việc xảy ra tương tự với chiến dịch công trái Anh của Nathan năm 1815
khiến người ta khiếp đảm.
Vì George
Peabody không có con nối dõi nên sản nghiệp khổng lồ kia cũng chẳng có ai thừa
kế. Chính vì thế mà ông rất khổ tâm và cuối cùng quyết định mời chàng trai trẻ
tuổi Junius Morgan nhập hội làm ăn.
Sau khi
George Peabody nghỉ hưu, Junius Morgan đã nắm giữ toàn bộ việc làm ăn và đổi
tên công ty này thành Junius S. Morgan and Company, sau đó đổi tên chi nhánh ở
Mỹ thành J.P. Morgan and Company.
Năm 1869,
trong cuộc họp mặt ở London với gia tộc Rothschild, dòng họ Morgan đã hoàn toàn
kế thừa mối quan hệ của George Peabody với gia tộc Rothschild và đưa mối quan hệ
hợp tác này phát triển lên một tầm cao mới. Năm 1880, J.P. Morgan đầu tư một lượng
lớn vốn nhằm tổ chức lại hoạt động kinh doanh của công ty đường sắt.
Ngày 5 tháng
2 năm 1891, gia tộc Rothschild và một số nhà ngân hàng khác ở Anh đã thành lập
một tổ chức bí mật lấy tên là “Tập đoàn hội nghị bàn tròn”. Ở Mỹ, một tổ chức
tương tự cũng được thành lập, đứng đầu chính là dòng họ Morgan. Sau chiến tranh
thế giới thứ nhất, “Tập đoàn hội nghị bàn tròn” của Mỹ được đổi tên thành “Hội
đồng đối ngoại” (Council on Foreign Relations), còn ở Anh thì đổi thành “Viện
Hoàng gia về Quan hệ quốc tế“ (Royal Institute of International Affairs). Rất
nhiều quan chức của chính phủ hai nước Anh và Mỹ đều là những người được lựa chọn
từ hai hiệp hội này.
Năm 1899,
J.P. Morgan và Drexel đến London tham gia đại hội các nhà tài phiệt ngân hàng
quốc tế.
Ngay khi trở
về, J.P. Morgan đã được chỉ định làm đại diện cao cấp cho lợi ích của dòng họ
Rothschild ở Mỹ. Hội nghị London đi đến một thống nhất rằng, các công ty J.P.
Morgan (New York), Drexel (Philadelphia), Grenfell (London), Morgan Harjes Cỉe
(Paris), M.M. Warburg Company (Đức) và Mỹ, gắn kết hoàn toàn với dòng họ
Rothschild. Năm 1901, J.P. Morgan đã mua lại công ty gang thép Carnegie với giá
500 triệu đô-la, sau đó cơ cấu lại toàn bộ tố chức này và biến nó thành Công ty
gang thép Mỹ (United States Steel Corporation) có giá thị trường hơn 1 tỉ
đô-la. J.P. Morgan được coi là người giàu nhất trên thế giới thời đó, thế
nhưng, căn cứ theo báo cáo của uỷ ban kinh tế lâm thời quốc gia (Temporary
National Economic Committee), ông ta chỉ năm giữ 9% cổ phần của công ty mình.
Xem ra, Morgan với tiếng tăm lừng lẫy vẫn chỉ là một nhân vật diễn trước sân khấu.
4.
Rockefeller: Vua dầu mỏ
John
Rockefeller cha là một nhân vật ít nhiều gây tranh cãi trong lịch sử nước Mỹ, bị
thiên hạ chụp mũ là “người máu lạnh”. Tên tuổi của ông gần liền với công ty dầu
mỏ nổi tiếng thế giới.
Việc buôn
bán dầu mỏ của John Rockefeller bắt đầu từ thời kỳ nội chiến Mỹ (1861 - 1865),
và mãi đến năm 1870, khi công ty dầu mỏ được thành lập thì quy mô làm ăn của
ông vẫn thuộc vào hàng thường thường bậc trung. Sau khi nhận được một khoản cho
vay cơ bản của ngân hàng đô thị quốc gia Cleveland, trong nháy mắt, dường như
Rockefeller đã tìm được cảm giác đích thực của mình. Dã tâm cạnh tranh theo luật
rừng của nhà tài phiệt này đã vượt xa sức tướng tượng của mọi người.
Nhận thấy
ngành công nghiệp luyện dầu rất có triển vọng tốt với mức lợi nhuận ngắn hạn rất
cao, nhưng Rockefeller cũng đồng thời nhìn thấy một sự thật hiển nhiên: đó là sự
cạnh tranh trong lĩnh vực này diễn ra kịch liệt mà không có sự kiểm soát, vì thế,
sớm hay muộn, các doanh nghiệp tham gia vào cuộc chơi này cũng sẽ rơi vào cảnh
cạnh tranh theo kiểu tự sát. Và để tồn tại, chỉ có duy nhất một cách: tiêu diệt
đối thủ cạnh tranh bằng mọi giá, không từ bất cứ thủ đoạn nào.
Trước hết,
Rockefeller khống chế công ty trung gian nhưng không để cho ai biết rằng mình
đã đề xuất mua lại đối thủ cạnh tranh với giá thấp. Nếu cự tuyệt, đối thủ cạnh
tranh sẽ đối mặt với cuộc chiến giá cả thảm khốc, cho đến khi đối thủ phủ phục
hoặc phá sản mới thôi. Nếu không hiệu quả, sau cùng Rockefeller sẽ sử dụng đến
chiêu sở trường của mình - bạo lực: đánh công nhân của đối thủ cạnh tranh,
phóng hoả thiêu rụi nhà xưởng của đối thủ. Sau mấy hiệp như vậy, số đối thủ may
mắn sống sót chỉ còn đếm trên đầu ngón tay. Tuy đã gây nên sự căm phẫn trong giới
kinh doanh, nhưng hành vi lũng đoạn này của Rockefeller cũng đem lại hứng thú
cao độ cho các nhà tài phiệt ngân hàng ở New York.
Dòng họ
Rothschild vẫn muốn tìm mọi cách khống chế nước Mỹ đang ngày càng lớn mạnh. Tuy
nhiên, những mánh khóe của họ tộc này sớm muộn đều thất bại. Việc khống chế một
quốc vương ở châu Âu đơn giản hơn rất nhiều so với việc khống chế một chính phủ
dân cử. Sau cuộc nội chiến của Mỹ, dòng họ Rothschild bắt đầu sắp xếp kế hoạch
khống chế Mỹ. Về tài chính thì đã có công ty Morgan và công ty Kuhn Loeb, còn
trong giới công nghiệp vẫn chưa có ai thích hợp. Những gì mà Rockefeller làm đã
thắp lên một tia hy vọng cho dòng họ Rothschild. Nếu như được tiếp thêm một lượng
tài chính lớn thì thực lực của nhà Rockefeller sẽ vượt rất xa so với một vùng
Cleveland nho nhỏ.
Rothschild
đã cử Jacob Schiff của công ty Kuhn Loeb - một chiến lược gia quan trọng nhất của
họ về tài chính ở Mỹ - tham gia vào kế hoạch này. Năm 1875, Jacob Schiff thân
chinh đến Cleveland để chỉ cho Rockefeller cách thức triển khai các bước tiếp theo
trong kế hoạch khống chế nước Mỹ. Cùng với sự xuất hiện của Jacob Schiff, một
điều may mấn khác cũng đến với Rockefeller mà có nằm mơ ông ta cũng không dám
nghĩ đến: thông qua ngân hàng Morgan và công ty Kuhn Loe, Rothschild đã khống
chế 95% thị phần vận chuyển đường sắt Mỹ, đồng thời Jacob Schiff đang có dự định
thành lập công ty South Improvement Company nhằm cung cấp dịch vụ vận chuyển
giá rẻ cho công ty dầu mỏ cua Rockefeller, mà dưới sự khống chế giá cước vận
chuyển này, chẳng có mấy công ty luyện dầu có thể tiếp tục sinh tồn. Rất nhanh
chóng, Rockefeller đã lũng đoạn hoàn toàn ngành dầu mỏ của Mỹ, trở thành “Vua dầu
mỏ” thật sự cả về nghĩa đen lẫn nghĩa bóng.
5. Jacob
Schiff: Chiến lược gia tài chính của Rothschild
Mối quan hệ
mật thiết giữa hai dòng họ Rothschild và Schiff có thể được truy ngược về năm
1785, khi Rothschild cha chuyển đến một toà dinh thự năm tầng ở Frankfurt, và
trong nhiều năm liền sống chung với dòng họ Schiff.
Cùng là các
nhà tài phiệt ngân hàng gốc Do Thái ở Đức nên hai dòng họ này có mối quan hệ hữu
hảo kéo dài hàng trăm năm.
Năm 1865,
tròn 18 tuổi, Jacob Schiff đến Mỹ sau một thời gian thực tập ở ngân hàng
Rothschild (Anh).
Sau khi tổng
thống Lincoln bị ám sát, Jacob làm kế toán cho các ngân hàng châu Âu của Mỹ, đồng
thời cùng thúc đẩy việc xây dựng chế độ ngân hàng trung ương tư hữu của Mỹ. Một
mục đích khác của Jacob chính là phát hiện, bồi dưỡng kiến thức cho đại diện của
ngân hàng châu Âu, đồng thời đưa họ gia nhập
vào các vị
trí quan trọng như chính phủ, toà án, ngân hàng, công nghiệp, để chờ thời cơ.
Ngày 1 tháng
1 năm 1875, Jacob liên kết với công ty Kuhn Loeb và trở thành thành viên chủ chốt
của công ty.
Dưới sự ủng
hộ của đế chế Rothschild hùng mạnh, cuối cùng công ty Kuhn Loeb đã trở thành một
trong những ngân hàng đầu tư nổi tiếng nhất cuối thế kỷ 19 và đầu thế kỷ 20.
6. James
J. Hill: Vua đường sắt
Xây dựng đường
sắt là ngành công nghiệp quan trọng đòi hỏi nguồn tài chính lớn. Sự phát triển
của ngành công nghiệp đường sắt khổng lồ tại Mỹ chủ yếu dựa vào nguồn tiền từ
thị trường vốn của Anh và các quốc gia khác ở châu Âu. Khống chế việc phát hành
công trái đường sắt Mỹ ở châu Âu chính là thủ đoạn của các nhà tài phiệt nhằm nắm
giữ số phận của ngành công nghiệp này.
Năm 1873,
các nhà tài phiệt ngân hàng quốc tế đột ngột siết chặt nguồn tài chính đối với
Mỹ đồng thời bán tháo công trái của nước này. Điều đó khiến cho công trái đường
sắt Mỹ lâm vào cảnh chợ chiều.
Ngay khi cuộc
khủng hoảng kết thúc vào năm 1879, dòng họ Rothschild lập tức trở thành chủ nợ
lớn nhất của ngành đường sắt Mỹ. Chỉ cần cao hứng một chút, nhà tài phiệt này
có thể bóp chết mạch máu tài chính của bất kỳ công ty đường sắt nào của Mỹ.
Trong bối cảnh đó, James J. Hill - một thương gia khởi nghiệp với nghề vận chuyển
đường sắt bằng hơi nước và than đá - buộc lòng phải đầu quân dưới trướng của
các nhà tài chính để có thể sinh tồn và lớn mạnh trong sự cạnh tranh khốc liệt
của ngành đường sắt.
Morgan chính
là chỗ dựa tài chính đối với ông ta. Với sự ủng hộ của Morgan, James J. Hill đã
thực hiện kế hoạch thôn tính hàng loạt công ty đường sắt đang lâm vào cảnh phá
sản sau cuộc khủng hoảng năm 1873.
Đến năm
1893, giấc mơ được nắm giữ ngành đường sắt xuyên Mỹ của James J. Hill cuối cùng
đã trở thành hiện thực. Khi tranh giành quyền khống chế đường sắt miền Tây,
James J. Hill đã gặp phải một đối thủ rất mạnh - Liên hiệp đường sắt Thái Bình
Dương (Union Pacific Railroad) do Tập toàn tài chính Rockefeller đỡ đầu. Liên
hiệp này đã bất ngờ tấn công ông trùm vận tải đường sắt bằng việc bí mật thu
mua cổ phiếu của công ty Northern Pacific do James J. Hill kiểm soát. Khi phát
hiện ra vấn đề thì James J. Hill đã sắp mất quyền kiểm soát công ty. Ông ta lập
tức cầu viện khẩn cấp nhà tài phiệt Morgan lúc này đang trong kỳ nghỉ mát ở
châu Âu. Morgan lập tức ra lệnh cho thuộc hạ phản kích lại sự khiêu chiến của
Rockefeller. Trong một thời gian dài, thị trường cổ phiếu phố Wall như lên cơn
sốt, nhà đầu tư tranh nhau mua cổ phiếu của Công ty đường sắt Northern Pacific
như ăn mày cướp cháo thí khiến mỗi cổ phiếu có khi đã nhảy lên mức 1.000 đô-la.
Hai con hổ
đánh nhau ắt có con bị thương, cuối cùng các nhà tài phiệt ngân hàng quốc tế buộc
phải điều đình.
Kết quả là,
Công ty cổ phần chứng khoán miền Bắc (Northern Securities Company) được thành lập,
hai con hổ cùng nhau kiểm soát ngành vận chuyển đường sắt Bắc Mỹ. Ngay trong
ngày thành lập công ty này, tổng thống McKinley bị ám sát, Phó tổng thống
Roosevelt cha lên kế nhiệm. Dưới sự phản đối quyết liệt của Roosevelt cha, Công
ty chứng khoán miền Bắc bị “Đạo luật chống độc quyền” - đạo luật được quốc hội
Mỹ thông qua năm 1890 - cưỡng chế giải thể. Sau đó James J. Hill quay hướng đầu
tư về miền Nam, nuốt gọn ngành vận chuyển đường sắt từ Colorado thẳng đến
Texas.
Đến khi qua
đời vào năm 1916, James J. Hill đã tích góp được một tài sản lên đến 53 triệu
đô la.
7. Anh em
nhà Warburg
Năm 1902,
hai anh em Paul và Felix từ Frankfurt (Đức) di cư sang Mỹ. Hai chàng trai này
xuất thân trong một gia đình có truyền thống về nghề ngân hàng, rất tinh thông
trong lĩnh vực này, đặc biệt là Paul, người được gọi là cao thủ trong giới tài
chính thời đó. Rothschild tỏ ra rất xem trọng tài năng của Paul nên đã đặc phái
hai anh em từ ngân hàng của dòng họ Warburg (M. M. Warburg and Co.) đến Mỹ vốn
lúc này đang rất cần nhân tài.
Lúc này,
dòng họ Rothschild thúc đẩy kế hoạch ngân hàng trung ương tư hữu ở Mỹ đã gần cả
trăm năm, sụt sùi nhiều phen mà chưa được như ý. Lần này, Paul sẽ đảm nhận nhiệm
vụ chủ công. Sau khi đến Mỹ được một thời gian, Paul đã kết giao với công ty
Kuhn Loeb của Jacob Schiff, đồng thời cưới con gái của vợ chồng Schiff, còn
Felix cũng đã cưới một cô con gái khác của Schiff.
Colonel Ely
Garrison - cố vấn tài chính suốt hai đời tổng thống Roosevelt (cha) và Wilson
đã nhận xét rằng: “Aldrich đang gặp phải sự phản đối trên toàn quốc, chính ngài
Paul Warburg đã cơ cấu lại đề án
Cục Dự trữ
Liên bang Mỹ. Trí tuệ thiên tài đằng sau kế hoạch này đều bắt nguồn từ Alfred
Rothschild của London”.
8. Tuyến
tiền tiêu của việc xây dựng Cục Dự trữ Liên bang Mỹ: Cuộc khủng hoảng ngân hàng
năm 1907
Năm 1903,
Paul đem cương lĩnh hành động với các chỉ dẫn cách thức áp dụng những “kinh
nghiệm tiên tiến” của các ngân hàng trung ương châu Âu đến nước Mỹ và trao cho
Jacob Schiff. Sau đó, tài liệu này lại được trao cho James Stillman - CEO của
National City Bank (sau này là Ngân hàng Hoa Kỳ) và nhóm các nhà ngân hàng của
New York. Mọi người đều cảm thấy như được khai sáng nhờ tư tưởng của Paul.
Vấn đề là sự
phản đối của dân chúng đối với ngân hàng trung ương tư nhân tăng lên rất mạnh.
Giới công nghiệp cũng như chủ các doanh nghiệp vừa và nhỏ rất ác cảm với các
nhà tài phiệt ngân hàng New York.
Bất cứ đề án
nào có liên quan đến ngân hàng trung ương tư nhân do các nhà tài phiệt ngân
hàng đề xuất đều bị các nghị sĩ quốc hội tránh né giống như tránh bệnh truyền
nhiễm vậy. Trong một bầu không khí khó chịu mang đậm tính chính trị như vậy, việc
thông qua đề án ngân hàng trung ương nhằm tạo ra lợi thế cho các nhà tài phiệt
ngân hàng quả thật là một điều vô cùng khó khăn.
Để xoay chuyển
tình thế bất lợi, một cuộc khủng hoảng tài chính khổng lồ đã bắt đầu được nghĩ
đến. Trước hết, trong dư luận bắt đầu xuất hiện những khái niệm tài chính mới.
Ngày 6 tháng
1 năm 1907, một bài viết của Paul với tiêu đề “Khuyết điểm và nhu cầu của hệ thống
ngân hàng chúng ta” (Defects and Needs of Our Banking System) đã được công bố để
rồi từ đây, Paul trở thành người cổ suý hàng đầu cho chế độ ngân hàng trung ương
ở Mỹ. Không lâu sau đó, tại hội nghị dành cho các thương gia New York, Jacob
Schiff đã tuyên bố rằng “nếu không đủ sức kiểm soát nguồn vốn tín dụng, ngân
hàng trung ương của chúng ta sẽ phải trải qua một cuộc khủng hoảng tài chính
ghê gớm với tầm ảnh hưởng sâu rộng nhất(5).
Giống như thời
kỳ 1837, 1857, 1873, 1884 và 1893, các nhà tài phiệt ngân hàng đã sớm nhìn ra
hiện tượng bong bóng xuất hiện trong sự phát triển quá nóng của nền kinh tế, và
đây cũng là kết quả tất yếu của việc không ngừng nới lỏng vòng quay lưu chuyển
tiền tệ. Nói một cách hình tượng, toàn bộ quá trình này giống như việc nuôi cá
trong hồ. Việc chế nước vào hồ cá cũng giống như chuyện nới lỏng vòng quay lưu
chuyển tiền tệ hay bơm một lượng lớn tiền vào nền kinh tế. Sau khi nhận được một
lượng lớn tiền được bơm vào này, dưới sự mê hoặc của tiền bạc, các ngành các giới
bắt đầu ngày đêm khổ sở, nỗ lực sáng tạo ra của cải, và quá trình này giống như
việc cá trong hồ cá ra sức hấp thụ các thành phần dinh dưỡng để ngày càng béo mập.
Khi nhận thấy thời cơ thu nhập đã chín muồi, các nhà ngân hàng sẽ đột ngột siết
chặt vòng quay lưu chuyển tiền tệ, rút cạn nước trong hồ, và phần lớn cá trong
hồ lúc này chỉ biết tuyệt vọng chờ đợi giây phút bị tóm gọn.
Nhưng chỉ có
các ông trùm ngân hàng lớn nhất mới biết được đâu là thời điểm bắt đầu hút nước
vớt cá. Ngay sau khi một quốc gia thành lập chế độ ngân hàng trung ương tư
nhân, việc kiểm soát quá trình rút nước hớt cá của đám tài phiệt ngân hàng lại
càng trở nên dễ dàng hơn bao giờ hết.
Quy trình phát
triển, suy thoái kinh tế, tích luỹ và bốc hơi tài sản đều là kết quả tất yếu từ
việc “nuôi dưỡng” một cách khoa học của các nhà ngân hàng.
Morgan và
các nhà tài phiệt ngân hàng quốc tế sau lưng ông ta đã tính toán một cách chính
xác thành quả dự tính của cơn bão táp tài chính lần này. Trước hết là trò “rung
cây doạ khỉ”, làm chấn động xã hội Mỹ, để “thực tế” chỉ rõ rằng một xã hội
không có ngân hàng trung ương sẽ yếu ớt đến thế nào. Tiếp đến là trò bóp nghẹt
và sáp nhập các đối thủ cạnh tranh vừa và nhỏ, đặc biệt là những công ty đầu tư
uỷ thác mua bán, khiến các nhà ngân hàng cảm thấy khó chịu.
Các công ty
đầu tư uỷ thác thời đó đang nắm giữ nhiều nghiệp vụ mà ngân hàng không thể có,
trong khi đó, chính phủ lại hết sức thông thoáng về mặt quản lý. Tất cả những
điều này khiến cho các công ty đầu tư uỷ thác ra tay thu hút nguồn vốn xã hội
và đầu tư vào các ngành nghề có rủi ro cao hay thị trường cổ phiếu. Đến khi cuộc
khủng hoảng bùng phát vào tháng 10 năm 1907, khoảng một nửa các khoản gửi ngân
hàng ở New York đều bị các công ty đầu tư uỷ thác gán nợ với lãi suất cao để đầu
tư vào thị trường cổ phiếu và công trái có mức rủi ro cao, và như vậy, cả thị
trường tài chính rơi vào trạng thái đầu cơ tột độ.
Trong suốt mấy
tháng trước thời gian này, Morgan liên tục đi “nghỉ mát” giữa London và Paris.
Theo sự hoạch định công phu của các nhà tài chính quốc tế, Morgan trở về Mỹ.
Không lâu
sau, ở New York bỗng nhiên có tin đồn rằng Knickerbocker Trust - một công ty uỷ
thác mua bán lớn thứ ba nước Mỹ - sắp phá sản. Lời đồn đại như virus độc hại
lan ra khắp New York với tốc độ chóng mặt. Những người có tài khoản tiết kiệm ở
ngân hàng vô cùng hoảng sợ chen chúc nhau sắp hàng suốt sáng thâu đêm trước cửa
các công ty uỷ thác để chờ rút hết tiền trong tài khoản của họ. Còn ngân hàng
thì yêu cầu các công ty uỷ thác này phải lập tức hoàn nợ. Do phải đối mặt với sức
ép từ hai phía nên các công ty đầu tư uỷ thác chỉ còn biết cách vay tiền thị
trường cổ phiếu (Margin Loan), lãi suất vay trong nháy mắt đã nhảy lên mức
150%. Đến ngày 24 tháng 10, giao dịch thị trường cổ phiếu hầu như rơi vào trạng
thái đóng băng.
Lúc này,
Morgan xuất hiện với bộ mặt của một vị chúa cứu thế. Vị chủ tịch Sở Giao dịch
chứng khoán New York tìm đến phòng làm việc của Morgan cầu cứu. Với giọng run rẩy,
ông ta cho Morgan biết rằng nếu trước ba giờ chiều mà không thể tập trung đủ 25
triệu đô-la thì ít nhất 50 doanh nghiệp sẽ phá sản, và ngoài việc đóng cửa sở
giao dịch ra, ông ta không còn lựa chọn nào khác. Hai giờ chiều, Morgan triệu tập
khẩn cấp hội nghị các nhà ngân hàng, và trong vòng 16 phút, các nhà ngân hàng
đã gom đủ tiền.
Morgan lập tức
cho người đến Sở Giao dịch chứng khoán tuyên bố sẽ mở rộng biên độ cho vay với
lãi suất 10%, cả Sở Giao dịch ngay tức khắc vang lên một tràng hoan hô. Chỉ
trong một ngày, nguồn vốn cứu trợ khẩn cấp đã hết veo, lãi suất lại bắt đầu sốt
mạnh. Tám ngân hàng và công ty uỷ thác mua bán đã đóng cửa. Morgan vội tìm đến
Ngân hàng thanh toán New York, yêu cầu phát hành ngân phiếu định mức - một nguồn
tiền tạm thời - để ứng phó với sự thiếu hụt hiện kim nghiêm trọng.
Thứ bảy ngày
2 tháng 11, Morgan bắt đầu triển khai kế hoạch mà ông đã nung nấu từ lâu nhằm cứu
vãn công ty Moore and Schley đang chao đảo trong mưa gió. Công ty này đã lún
sâu vào khoản nợ 25 triệu đô-la, sắp phải đóng cửa. Nhưng công ty này lại là chủ
nợ chính của Tennessee Coal and Iron Company, và nếu công ty này phải tuyên bố
phá sản thì thị trường cổ phiếu New York sẽ hoàn toàn sụp đổ, hậu quả liên quan
sẽ khó lường hết. Morgan cho mời tất cả các nhân vật tai to mặt lớn trong giới
tài chính New York đến thư viện của ông. Các nhà ngân hàng thương mại được bố
trí trong phòng sách phía đông, trong khi ông tổng của công ty uỷ thác mua bán
được sắp xếp ở phòng sách phía tây, còn các nhà tài chính đứng ngồi không yên
và đang lo cho số phận của mình thì được Morgan bố trí một phòng riêng.
Morgan thừa
biết rằng nguồn tài nguyên khoáng sắt và than đá của các bang Alabama, Georgia
thuộc quyền nắm giữ của Tennessee Coal and Iron Company sẽ giúp tăng cường vị
thế bá chủ gang thép do Morgan dựng nên. Dưới sự khống chế của pháp lệnh chống
lũng đoạn, Morgan không thể nuốt trôi miếng mồi béo bở này, trong khi cuộc khủng
hoảng lần này đã đem đến cho ông ta một cơ hội hiếm có.
Điều kiện của
Morgan là, để cứu vãn Tennessee Coal and Iron Company cũng như cả ngành uỷ thác
mua bán, các công ty uỷ thác mua bán cần phải huy động nguồn vốn 25 triệu đô-la
đồng thời mua lại quyền nợ của Công ty khai khoáng và luyện thép Tennessee từ
tay Moore và Schley. Cuối cùng, dưới áp lực phá sản cận kề và sự mệt mỏi do lo
nghĩ, các ông chủ của các công ty đầu tư đã phải đầu hàng Morgan.
Ngay sau khi
thâu tóm được miếng mồi béo là Công ty Tennessee Coal and Iron này, Morgan vui
mừng khôn xiết, nhưng vẫn còn một cửa ải cuối cùng phải vượt qua - tổng thống
Roosevelt (cha), người luôn luôn phản đối tình trạng lũng đoạn. Tối chủ nhật
ngày 3 tháng 11, Morgan phái người đến Washington ngay trong đêm với nhiệm vụ
phải lấy được phê chuẩn của tổng thống trước khi thị trường cổ phiếu mở cửa vào
sáng thứ hai. Ngân hàng khủng hoảng, hàng loạt doanh nghiệp đóng cửa, người dân
tức giận vì đã mất đi tất cả của cải. Điều này đã tạo nên sự khủng hoảng trong
chính quyền khiến cho Roosevelt (cha) không thể không dựa vào sức mạnh của
Morgan để ổn định đại cuộc, trong thời khắc cuối cùng, ông ta đã buộc phải đặt
bút ký vào bản hạ thành liên minh. Khi đó chỉ còn 5 phút nữa là đến giờ thị trường
cổ phiếu ngày thứ hai mở cửa!
Tin tức
nhanh chóng lan khắp thị trường New York.
Morgan đã
mua lại Tennessee Coal and Iron với giá siêu rẻ 45 triệu đô-la, trong khi giá
trị thực của công ty này theo tính toán của John Moody ít nhất cũng khoảng 1 tỉ
đô-la.
Mỗi một cuộc
khủng hoảng tài chính đều là sự định hướng chính xác cho sự bùng nổ những âm
mưu đã nung nấu từ lâu Lâu đài tài chính mới tinh nguy nga rực rở luôn được xây
trên đống hoang tàn đổ nát của hàng ngàn hàng vạn người phá sản.
9. Từ chế
độ bản vị vàng đến tiền giấy - bước chuyển lớn trong thế giới quan của các nhà
ngân hàng
Từ cuối thế
kỷ 19, trong nhận thức của các nhà ngân hàng quốc tế đối với tiền bạc lại có
thêm một sự khác biệt mới. Châu Âu bước sang thế kỷ 20, các nhà tài phiệt ngân
hàng đã tìm ra một thể chế tiền lệ pháp định hiệu quả cao hơn và cũng phức tạp
hơn. Tiền tệ pháp định đã thoát ly triệt để khỏi sự khống chế cứng rắn của vàng
và bạc đối với tổng lượng tiền cho vay, khiến cho việc khống chế tiền tệ càng
thêm mềm dẻo nhưng cũng kín đáo hơn. Trong khi hiểu được rằng lợi ích thu được
từ việc tăng cường cung ứng tiền tệ vô hạn tổn thất hơn rất nhiều so với lợi tức
các khoản vay mà lạm phát tiền tệ đem lại, các nhà ngân hàng bèn lập tức trở
thành những người ủng hộ cuồng nhiệt nhất cho tiền tệ pháp định. Bằng việc phát
hành thêm tiền với tốc độ nhanh mạnh, các nhà ngân hàng đã tước đoạt toàn bộ của
cải giá trị nhất của dân chúng trên cả nước, mà so với phương thức ngân hàng cưỡng
chế phát mãi tài sản của người khác, lạm phát tiền tệ “văn minh” hơn nhiều, đồng
thời cũng ít gặp phải sự kháng cự của người dân hơn, thậm chí còn khó mà phát
hiện ra.
Với sự tài
trợ của các nhà tài phiệt ngân hàng, các nghiên cứu kinh tế học về lạm phát tiền
tệ dần chuyển hướng sang quỹ đạo của trò chơi số học đơn thuần. Khái niệm lạm
phát tiền tệ (Currency Inflation) do việc phát hành thêm tiền giấy gây nên đã
hoàn toàn bị lý luận lạm phát giá cả (Price Inflation) che khuất. Lúc này,
ngoài chế độ dự trữ vàng cục bộ (Fractional Reserve) cũng như việc cắt đứt mối
quan hệ giữa tiền tệ và công trái quốc gia, các nhà ngân hàng lại có thêm một
công cụ lợi hại hơn: lạm phát tiền tệ. Từ đây, các nhà ngân hàng đã thực hiện sự
chuyển biến đầy kịch tính từ người bảo vệ vàng trở thành kẻ thù không đội trời
chung đối với vàng.
Nhận xét của
Keynes đối với nạn lạm phát tiền tệ có thể nói là vô cùng sắc bén “áp dụng biện
pháp này, chính phủ có thể tận thu toàn bộ của cải của người dân một cách bí mật
mà khó bị phát giác, trong một triệu người thật khó có một người có thể phát hiện
ra hành vi ăn cấp này”.
Nói một cách
chính xác thì biện pháp này không phải do Cục Dự trữ Liên bang thực hiện mà là
chính phủ.
10. Cuộc
tranh cử tổng thống năm 1912
Thứ
Ba, vị Hiệu trưởng của Trường Đại học Princeton sẽ trúng cử Thống đốc bang New
Jersey của các bạn. Tháng 11 năm 1912, ông ta sẽ đắc cử tổng thống Hoa Kỳ.
Tháng 3 năm 1917, ông ta sẽ tiếp tục tái đắc cử thêm một nhiệm kỳ nữa. Và đó sẽ
là một trong những tổng thống vĩ đại nhất trong lịch sử Hoa Kỳ.
Bài phát biểu của Rabbi Stephen ở New Jersey năm 1910
Wise - người
sau này trở thành cố vấn thân cận của tổng thống Wilson - có thể dự đoán chính
xác kết quả cuộc tranh cử tổng thống trước hai năm, thậm chí là kết quả bầu cử
thông thống của sáu năm sau, hoàn toàn không phải vì trong tay ông ta thật sự
có một quả cầu thần kỳ của các phù thuỷ, mà bởi vì mọi kế hoạch đều là việc đã
được các nhà tài phiệt ngân hàng vạch sẵn.
Đúng như dự
tính của các nhà ngân hàng quốc tế, cuộc khủng hoảng kinh tế năm 1907 đã gây chấn
động rất lớn đến xã hội Mỹ. Sự phẫn nộ của dân chúng đối với công ty đầu tư uỷ
thác, sự hoang mang đối với việc đóng cửa của các ngân hàng, sự dè chừng và sợ
hãi đối với thế lực của các ông trùm tài chính phố Wall hoà vào nhau tạo thành
trào lưa phản đối mạnh mẽ mọi sự lũng đoạn tài chính và đã cuốn cả nước Mỹ vào
cuộc.
Woodrow
Wilson - Hiệu trưởng Trường Đại học Princeton - chính là một nhân vật sục sôi
phản đối sự lũng loạn tài chính đó. Frank Vanderlip - Chủ tịch National City
Bank đã từng nói rằng: “Tôi viết thư mời Woodrow Wilson - Hiệu trưởng Trường Đại
học Princeton tham gia một buổi dạ tiệc và phát biểu diễn thuyết. Để cho ông ta
biết được đây là một cơ hội trọng đại, tôi đã nói rằng thượng nghị sĩ Aldrich
cũng phải đến tham dự và phát biểu diễn thuyết. Câu trả lời của tiến sĩ Wilson
đã khiến tôi kinh ngạc. Ông ta đã thẳng thừng từ chối phát biểu diễn thuyết
chung với thượng nghị sĩ Aldrich. Thượng nghị sĩ Aldrich khi đó là người rất có
thế lực với 40 năm làm việc trong Quốc hội nhưng có đến 36 năm là thượng nghị
sĩ, lại là Chủ tịch uỷ ban tài chính thượng viện có quyền lực rất lớn, bản thân
là cha vợ của Johan Rockefeller con, có mối qua lại vô cùng mật thiết với giới
ngân hàng phố Wall. Năm 1908, ông ta đã đề nghị rằng, trong tình huống khẩn cấp,
ngân hàng có thể phát hành tiền tệ, và dùng công trái của chính phủ liên bang,
chính phủ bang và chính phủ địa phương cùng với phiếu công trái đường sắt làm
tài sản thế chấp.
Thú vị thật,
rủi ro đã có chính phủ và người dân cáng đáng, còn chỗ ngon lành thì các nhà
tài phiệt ngân hàng hưởng cả. Điều này khiến người ta không thể không bái phục
thủ đoạn của phố Wall. Cái đề án này được gọi là “Đạo luật tiền tệ khẩn cấp”
(Emergency Currency Act), và trở thành cơ sở lập pháp cho đề án Cục Dự trữ Liên
bang Mỹ 5 năm sau đó. Thượng nghị sĩ Aldrich được coi là người phát ngôn của phố
Wall.
Woodrow
Wilson tốt nghiệp Đại học Princeton năm 1879, sau đó học thêm ngành luật ở Đại
học Virginia và bảo vệ thành công luận án tiến sĩ ở Đại học John Hopkins vào
năm 1886. Năm 1902, Woodrow Wilson chính thức trở thành Hiệu trưởng Đại học
Princeton. Với học vấn uyên thâm, ông luôn phản đối mạnh mẽ sự lũng đoạn tài
chính, và đương nhiên là không muốn gần gũi với người phát ngôn của các trùm
tài chính. Mặc dù học cao hiểu rộng và có một trái tim bác ái, song, vị Hiệu
trưởng trường Đại học Princeton cũng khó mà hiểu hết được kỹ xảo kiếm tiền của
các nhà tài phiệt ngân hàng phố Wall.
Đám tài phiệt
ngân hàng hiểu rõ rằng, Wilson là một người nổi tiếng chuyên phản đối sự lũng
đoạn tài chính, một nhân tài với hình tượng trong sáng, và đó quả thật là một
viên ngọc thuần khiết khó có được.
Vì thế, các
ông trùm nhà băng ngấm ngầm đổ tiền đầu tư vào Wilson, ra sức “đẽo gọt” hòng
dùng ông vào việc lớn.
Cũng may là
Cleveland Dodge - Chủ tịch Ngân hàng đô thị quốc gia New York lại là bạn học của
Wilson ở Đại học Princeton. Năm 1902, việc Wilson nhậm chức hiệu trưởng Đại học
Princeton một cách thuận lợi chính là kết quả của sự hỗ trợ to lớn về tài chính
của Dodge. Có được một mối quan hệ không đơn giản như vậy, dưới sự sắp đặt của
các nhà tài phiệt ngân hàng, Dodge bắt đầu loan lin ở phố Wall rằng Wilson được
dự đoán sẽ trở thành tổng thống tương lai.
Mới nhậm chức
hiệu trưởng được mấy năm mà Wilson đột nhiên được người khác tung hô mình là tổng
thống tương lai. Và việc Wilson thấy mừng âu cũng là chuyện thường tình. Đương
nhiên, việc được tung hô như vậy luôn phải trả giá. Wilson bắt đầu quay lưng với
phong trào phản đối lũng đoạn tài chính và xích gần lại với phố Wall. Quả
nhiên, dưới sự ủng hộ của các ông chủ phố Wall, năm 1910, Wilson nhanh chóng trở
thành Thống đốc bang New Jersey.
Bề ngoài,
Wilson vẫn nghiêm khắc chỉ trích phố Wall lũng đoạn tài chính cho dù thực tế
trong lòng ông ta cũng hiểu rằng địa vị và tiền đồ chính trị của ông ta sẽ phải
hoàn toàn dựa vào thế lực của các nhà tài phiệt ngân hàng. Còn đám tài phiệt
thì ra bộ khoan dung và kiềm chế một cách lạ thường trước sự đả kích của
Wilson. Dường như hai bên đã duy trì một sự hiểu ngầm khéo léo mà chẳng cần phải
nói ra.
Trong khi uy
tín và thanh danh của Wilson ngày càng lên cao, các nhà tài phiệt ngân hàng đã
trống giong cờ mở nhằm gây quỹ tranh cữ tổng thống cho ông. Dodge thành lập một
văn phòng quyên quỹ tranh cử cho Wilson tại số 42 đại lộ Broadway New York, mở
tài khoản ngân hàng đồng thời đóng góp một tấm chi phiếu trị giá 1.000 đô-la. Bằng
phương thức chuyển phát nhanh, Dodge đã quyên góp được một khoản kinh phí cực lớn
từ các nhà tài phiệt ngân hàng, và 2/3 nguồn kinh phí trong tổng số quyên góp
được đều do 7 nhà tài phiệt ngân hàng lớn nhất phố Wall đóng góp.
Sau khi được
đề cử tổng thống, trong niềm vui khó kiềm chế nổi, Wilson đã viết thư cho Dodge
và nói rằng “Thật là không thể tưởng tượng niềm vui của tôi”. Từ đây, Wilson đã
hoàn toàn dốc sức cho hoài bão của các nhà tài phiệt ngân hàng. Với tư cách là
người tham gia tranh cử của Đảng Dân chủ, Wilson đã mang trên vai mình trọng
trách cùng niềm hy vọng vô cùng của Đảng này. Cơn khát quyền lực của Đảng Dân
chủ vốn đã mát chiếc ghế tổng thống trong nhiều năm cũng chẳng khác gì cơn khát
của Wilson.
Thách thức lớn
nhất lúc này của Wilson chính là đương kim tổng thống Taft - người khi đó còn
chưa được biết đến trên toàn quốc - và so với Wilson thì rõ ràng Taft có lợi thế
hơn rất nhiều. Trong khi Taft đang tự tin chuẩn bị bước vào nhiệm kỳ thứ hai và
tỏ ý chưa sẵn sàng bật đèn xanh cho đạo luật của Aldrich thì một sự việc kỳ lạ
chưa từng thấy đã xảy ra: cựu tổng thống Roosevelt (cha) - người tiền nhiệm của
Taft đã đột nhiên chen ngang để tham gia tranh cử tổng thống. Thật là hoạ vô
đơn chí cho Taft của Đảng Cộng hoà lẫn người “thay ca” do Roosevelt (cha) lựa
chọn. Năm đó, nhờ ép buộc cơ quan chứng khoán miền bắc giải thể mà Roosevelt
(cha) đã trở nên nổi tiếng. Ông được tiếng là cương quyết với nạn lũng đoạn, và
sự xuất hiện đột ngột của ông ta sẽ xâm hại nghiêm trọng đến phiếu bầu của
Taft.
Trên thực tế,
sau lưng của ba ứng cử viên này đều có sự ủng hộ của các nhà tài phiệt ngân
hàng. Dưới sự dàn xếp của phố Wall, Roosevelt (cha) quả nhiên “không cẩn thận”
đã gây hại nặng nề cho Taft, khiến Wilson trúng cử thuận lợi.
Màn kịch này
tuy khúc điệu có khác nhưng cách diễn thì lại hay như màn kịch của năm 1992,
khi Bush cha bị Perry cướp mất một lượng lớn phiếu bầu đẫn đến thất bại bất ngờ
trước đối thủ mới Clinton.
11. Kế hoạch
B
Với sự sắp đặt
hết sức cơ mật và linh cảm nghề nghiệp vượt trội, các ông trùm ngân hàng ở đảo
Jekyll đã chuẩn bị sẵn hai kế hoạch. Kế hoạch thứ nhất chính là kế hoạch do thượng
nghị sĩ Nelson Aldrich chủ trì, chịu trách nhiệm tấn công nghi binh, để thu hút
hoả lực của phía phản đối, Đảng Cộng hoà là phe ủng hộ kế hoạch Aldrich. Một
phương án khác được gọi là “Kế hoạch B” mới là hướng tấn công chính thực sự,
đây chính là Đạo luật Cục Dự trữ Liên bang Mỹ sau này, còn Đảng Dân chủ là lực
lượng ủng hộ chủ yếu.
Thực ra, cả
hai kế hoạch này không có sự khác nhau về bản chất, chỉ có cách diễn đạt là
khác nhau mà thôi.
Cuộc tranh cử
tổng thống cũng được phát triển xoay quanh mục tiêu hạt nhân này. Mối quan hệ
giữa thượng nghị sĩ Aldrich với phố Wall là chuyện ai ai cũng biết. Trong bầu
không khí phản đối phố Wall mạnh mẽ phủ rộng khắp nước, đạo luật cải cách tài
chính do ông đề xuất tất nhiên là thất bại. Còn Đảng Dân chủ rời xa trung tâm
quyền lực đã lâu, luôn đóng vai phê phán kịch liệt sự lũng đoạn tài chính. Thêm
vào đó là hình ảnh tươi mới của Wilson. Tất cả những điều này khiến cho Đạo luật
Cục Dự trữ Liên bang Mỹ do Đảng Dân chủ ủng hộ có cơ hội sẽ được thông qua. Bằng
một thiết kế khéo léo tạo ra cuộc khủng hoảng năm 1907, họ đã buộc cả hai đảng
nhận ra rằng, cần phải cải cách thể chế tài chính, xuôi theo ý dân. Lúc này các
nhà ngân hàng đã phải hy sinh Đảng Cộng hoà, và chuyện ủng hộ Đảng Dân chủ tất
nhiên là việc làm hết sức logic.
Để tiến thêm
một bước trong việc mị dân, các nhà tài phiệt ngân hàng đã sử dụng cao chiêu
khiến cho hai đảng phái công kích lẫn nhau. Thượng nghị sĩ Aldrich chủ trì phe
chống đối, dùng những lời lẽ nghiêm khấc chỉ trích đề án của Đảng Dân chủ vốn
có ý thù địch với ngân hàng, và không có lợi cho chính phủ. Ông ta tuyên bố mọi
chính sách tiền tệ pháp định quay lưng lại với hệ thống bản vị vàng đều là
thách thức nghiêm trọng đối với các nhà tài phiệt ngân hàng.
Tạp chí
Nation ngày 23 tháng 10 năm 1908 đã đăng lời nhận xét rằng: “Chế độ tiền tệ
pháp định của chính phủ không được bảo đảm bằng vàng mà ngài Aldrich phản đối cũng
chính là kế hoạch do ông ta đề xuất năm 1908. Ông ta nên biết rằng, trên thực tế
chính phủ không liên quan đến việc phát hành tiền tệ, (các quy định đạo luật
trong thảo luận) uỷ ban Cục Dự trữ Liên bang toàn quyền khống chế việc phát
hành tiền tệ”.
Sự chỉ trích
của Đảng Dân chủ đối với đề án của Aldrich cũng khiến thiên hạ hả hê. Họ cho rằng
thứ mà Aldrich đang bảo vệ chính là lợi ích và địa vị lũng đoạn tài chính của
các nhà ngân hàng phố Wall, còn đề án Cục Dự trữ Liên bang Mỹ do Đảng Dân chủ đề
xuất là nhằm “xây dựng nên một hệ thống ngân hàng trung ương hoàn mỹ phân quyền
phân lập, trong đó tổng thống bổ nhiệm, quốc hội thẩm duyệt, các nhà ngân hàng
đưa ra ý kiến chuyên môn, khống chế lẫn nhau”.
Do không am
tường nhiều về công việc tài chính nên Wilson tin rằng, phương án này đã phá
tan sự lũng đoạn của các nhà ngân hàng phố Wall đối với ngành tài chính.
Chính nhờ sự
phản đối và chỉ trích kịch liệt của Aldrich và Vanderlip cũng như phố Wall mà đạo
luật Cục Dự trữ Liên bang Mỹ của Đảng Dân chủ chiếm được thiện cảm của dân
chúng.
12. Đề án
Cục Dự trữ Liên bang Mỹ được phê duyệt - mộng đẹp của các nhà tài phiệt ngân
hàng thành hiện thực
Đồng thời với
sự kiện Wilson trúng cử tổng thống, kế hoạch B chính thức được khởi động. Ngày
26 tháng 6 năm 1913, tức là chỉ 3 tháng sau khi Wilson bước vào Nhà Trắng,
Carter Glass - một nhà tài phiệt ngân hàng đồng thời là hạ nghị sĩ của bang
Virginia, đã chính thức tung ra kế hoạch B tại hạ viện: Dự luật Glass (The
Glass Bill). Ông ta cố ý tránh dùng những từ quá kích động như ngân hàng trung
ương, và thay vào đó là “Cục Dự trữ Liên bang”. Ngày 18 tháng 9, dự luật này đã
được thông qua tại hạ viện với tỉ lệ 287 phiếu thuận và 85 phiếu chống trong
tình hình đa số hạ nghị sĩ chẳng hiểu gì bản chất của vấn đề.
Sau khi được
trình lên thượng viện, dự luật này mang tên dự luật Glass-Owen. Bản thân thượng
nghị sĩ Robert Owen cũng là một nhà tài phiệt ngân hàng. Ngày 19 tháng 12 năm
1913, dự luật này đã được thượng viện thông qua. Lúc này, trong hai bản dự luật
này vẫn còn hơn 40 điểm khác nhau chờ giải quyết. Theo quy dính của hai viện,
trong vòng một tuần trước lễ Giáng sinh, Quốc hội sẽ không thông qua các dự luật
quan trọng và mọi người chỉ có thể đợi đến năm sau mới có thể bàn tiếp. Vì thế,
rất nhiều nghị sĩ phản đối dự luật này đã nhao nhao rời Washington về nhà nghỉ
lễ.
Lúc này, ở
Quốc hội có một văn phòng làm việc tạm thời. Paul Warburg chỉ huy trực tiếp chiến
địa này đã nắm đúng cơ hội ngàn năm có một này, phát động một trận chiến sấm chớp.
Ông cho mời các nghị sĩ đến văn phòng tạm thời này để thương thảo các bước tiếp
theo. Tối thứ bảy ngày 20 tháng 12, cả hai viện đã triệu tập hội nghị liên tịch
tiếp tục thương thảo các điểm bất đồng quan trọng. Lúc này, ai cũng muốn thông
qua dự luật bằng mọi giá trước kỳ nghỉ Giáng sinh. Thậm chí ngày 17 tháng 12,
Nhà Trắng tuyên bố bắt đầu cân nhắc đến danh sách thành viên Hội đồng quản trị
của Cục Dự trữ Liên bang khoá một. Nhưng mãi đến giữa đêm ngày 20, những bất đồng
quan trọng vẫn chưa thể giải quyết.
Dưới sự thúc
ép của các nhà tài phiệt ngân hàng, hội nghị liên tịch quyết định sẽ tiếp tục họp
trọn ngày chủ nhật - tức ngày 21, nếu không giải quyết được vấn đề thì không
nghỉ.
Đến nửa đêm
ngày 20, hầu như cả hai viện vẫn chưa đạt được sự thống nhất đối với một số vấn
đề quan trọng.
Những bất đồng
này bao gồm: Số lượng ngân hàng địa phương của Cục Dự trữ Liên bang Mỹ; lượng
vàng dự trữ được đảm bảo chắc chẩn như thế nào; tỉ lệ dự trữ vàng; vấn đề kết
toán tiền tệ trong mậu dịch quốc nội và quốc tế; đề án cải cách dự trữ vàng; tiền
tệ do Cục Dự trữ Liên bang Mỹ phát hành có thể trở thành vàng dự trữ của ngân
hàng thương mại hay không; tỉ lệ công trái chính phủ làm sản phẩm thế chấp để
phát hành tiền tệ của Cục Dự trữ Liên bang; vấn đề lạm phát tiền tệ(9).
Sau một
ngày, sáng thứ hai ngày 22, tờ New York Times đã đăng một bài báo quan trọng “Dự
luật tiền tệ hôm nay có thể trở thành luật”. Bài báo này đã nhiệt liệt tán
dương hiệu suất làm việc của Quốc hội, “với một tốc độ làm việc chưa từng có, hội
nghị liên tịch đã sửa đổi sự bất đồng đối với dự luật của hai viện, mọi thứ đã
hoàn tất vào sáng sớm hôm nay”. Khoảng thời gian mà bài báo này đề cập nằm vào
khoảng từ 1 giờ 30 đến 4 giờ sáng ngày thứ hai. Một dự luật quan trọng rồi đây
sẽ ảnh hưởng đến cuộc sống hằng ngày của mỗi người dân Mỹ đã được tiến hành dưới
sự vội vàng và áp lực, tuyệt đại đa số các nghị sĩ không thể đến kịp để đọc kỹ
những chỗ sửa đổi, chứ đừng nói đến việc chỉnh sửa dự luật.
4 giờ 30
sáng ngày 22, văn kiện cuối cùng đã được giao đến nhà in.
Đúng 7 giờ,
các nghị sĩ đối chiếu bản thảo lần cuối.
2 giờ chiều,
văn kiện đã in xong được đặt trên bàn làm việc của các nghị sĩ với thông báo cuộc
họp sẽ bắt đầu lúc 4 giờ chiều.
4 giờ chiều,
hội nghị bắt đầu.
Đúng 6 giờ,
báo cáo cuối cùng của hội nghị liên tịch đã được đưa ra, lúc này đại đa số nghị
sĩ đã đi ăn cơm tối, trên hội trường chỉ còn lác đác mấy nghị sĩ.
7 giờ 30 tối,
Grass bắt đầu đọc bài diễn văn kéo dài 20 phút, sau đó bước vào giai đoạn tranh
luận.
11 giờ đêm,
mọi người bắt đầu biểu quyết. Cuối cùng, hạ viện đã thông qua với số phiếu áp đảo
298/60. Ngày 23, hai ngày trước lễ Giáng sinh, thượng viện cũng đã biểu quyết
thông qua dự luật Cục Dự trữ Liên bang với tỉ lệ 43/25 (vắng 27 nghị sĩ). Để
báo đáp ơn tri ngộ của các nhà tài phiệt phố Wall, tổng thống Wilson đã chính
thức đặt bút ký vào dự luật này chỉ một giờ sau khi thượng nghị viện thông qua
dự luật
Cục Dự trữ
Liên bang Mỹ.
Phố Wall và
thành phố tài chính London tức khắc reo mừng hoan hô. Trong bài diễn thuyết hôm
đó, nghị sĩ Lindbergh đã nói rằng: Dự luật này (dự luật Cục Dự trữ Liên bang Mỹ)
đã trao quyền tín dụng lớn nhất trên trái đất. Ngay sau khi tổng thống đặt bút
ký vào dự luật này, quyền lực của tiền tài vốn dĩ chẳng xem chính phủ ra gì này
sẽ được hợp pháp hoá. Người dân trong thời gian ngắn sẽ không thể biết được điều
này, nhưng sau mấy năm nữa họ sẽ nhận ra tất cả. Đến lúc đó, người dân cần phải
tuyên bố “tuyên ngôn độc lập” lại lần nữa mới có thể giải phóng mình ra khỏi
quyền lực của đồng tiền. Thứ quyền lực của đồng tiền này cuối cùng sẽ đủ sức khống
chế cả Quốc hội. Nếu như các thượng nghị sĩ và hạ nghị sĩ chúng ta không lừa gạt
quốc hội thì phố Wall không thể lừa dối chúng ta. Nếu chúng ta thật sự có một
Quốc hội của dân thì người dân sẽ có đời sống ổn định. Sự phạm tội lớn nhất của
Quốc hội chính là dự luật hệ thống tiền tệ (dự luật Cục Dự trữ Liên bang Mỹ). Dự
luật ngân hàng này là sai lầm lập pháp nghiêm trọng nhất trong thời đại của
chúng ta. Giới chóp bu của hai đảng đã một lần nữa tước đoạt mất cơ hội nhận được
những điều tốt đẹp từ chính phủ của chính họ.
Còn các nhà
tài phiệt ngân hàng thì không ngớt lời ca ngợi dự luật này. Oliver Sands - Chủ
tịch American National Bank đã nói một cách tràn trề nhiệt tình rằng: “Việc
thông qua dự luật tiền tệ này sẽ tạo ra ảnh hưởng tích cực đối với quốc gia và
sẽ giúp ích cho hoạt động thương nghiệp. Theo tôi thấy, đây là sự bắt đầu cho một
thời đại phồn vinh rộng khắp”.
Trong bài trả
lời phỏng vấn tạp chí Independent tháng 7 năm 1914, thượng nghị sĩ Aldrich đã
tiết lộ: “Trước khi dự luật này (dự luật Cục Dự trữ Liên bang Mỹ) được thông
qua, các nhà tài phiệt ngân hàng New York chỉ có thể kiểm soát nguồn vốn của
vùng này. Bây giờ, họ đã có thể chi phối dự trữ vàng trong ngân hàng của cả quốc
gia”.
Trải qua hơn
một trăm năm đối đầu quyết liệt với chính phủ Mỹ, cuối cùng các nhà tài phiệt
ngân hàng quốc tế đã đạt được mục đích của họ: khống chế triệt để quyền phát
hành tiền tệ quốc gia của nước Mỹ. Và mô hình của Ngân hàng Anh cuối cùng đã được
phục chế thành công tại Hoa Kỳ.
13. Ai nắm
giữ Cục Dự trữ Liên bang Mỹ?
Nhiều năm
nay, vấn đề ai đang nắm giữ Cục Dự trữ Liên bang Mỹ vẫn luôn là một đề tài kín
như bưng.
Bản thân Cục
Dự trữ Liên bang Mỹ thì luôn quanh co úp mở. Giống như Ngân hàng Anh, Cục Dự trữ
Liên bang Mỹ cũng giữ kín thông tin về các cổ đông. Hạ nghị sĩ Wright Patman đảm
nhận chức chủ tịch ngân hàng Hạ viện và uỷ ban tiền tệ đến 40 năm, trong đó có
20 năm liền ông không ngừng đề xuất phương án phế bỏ Cục Dự trữ Liên bang Mỹ,
và ông cũng luôn để ý đến vấn đề rốt cuộc ai đang nắm giữ Cục Dự trữ Liên bang.
Bí mật này
cuối cùng đã được hé lộ. Eustace Mullins - tác giả cuốn sách “Bí mật của Cục Dự
trữ Liên bang Mỹ” (Secrets of Federal Reserve) - đã trải qua hơn nửa thế kỷ
nghiên cứu và thu thập được 12 giấy phép kinh doanh (Organization Certificates)
sớm nhất của ngân hàng Cục Dự trữ Liên bang Mỹ, trên đó ghi rõ ràng giá trị mỗi
một cổ phần cấu thành của Cục Dự trữ Liên bang.
Ngân hàng
New York của Cục Dự trữ Liên bang là ngân hàng khống chế thực tế hoạt động của
hệ thống Cục Dự trữ Liên bang Mỹ. Tổng lượng cổ phần phát hành theo đăng ký
trong văn bản gửi cơ quan kiểm toán ngày 19 tháng 5 năm 1914 là 20.3053 cổ phần,
trong đó:
National
City Bank of New York dưới sự khống chế của công ty Rockefeller và Kuhn Loe, tức
là tiền thân của Ngân hàng Hoa Kỳ, nắm giữ số cổ phần lớn nhất - 30.000 cổ phần.
First
National Bank của Morgan nắm giữ 15.000 cổ phần.
Sau khi sáp
nhập vào năm 1955 thành Ngân hàng Hoa Kỳ, hai công ty đã nắm giữ gần 1/4 số cổ
phần của Ngân hàng New York thuộc Cục Dữ trữ Liên bang Mỹ, và trên thực tế nó
đã quyết định chiếc ghế Chủ tịch của Cục Dự trữ Liên bang. Việc tổng thống bổ
nhiệm chức Chủ tịch chỉ là hình thức mà thôi, còn việc lấy ý kiến Quốc hội lại
càng giống một màn kịch.
Ngân hàng
thương mại quốc gia New York (National Bank of Commerce of New York City) của
Paul Wahlberg nắm giữ 21.000 cồ phần.
Hanover
Bank của dòng họ Rothschild đảm nhận chức Chủ tịch với quyền sở hữu 10.200 cổ
phần. Chase National Bank nắm giữ 6.000 cổ phần.
Chemical
Bank nắm giữ 6.000 cổ phần.
Tổng cộng,
sáu ngân hàng này đã nắm giữ 40% cổ phần Ngân hàng New York thuộc Cục Dự trữ
Liên bang Mỹ, đến năm 1983, họ đã nắm giữ tổng cộng là 53% lượng cổ phần.
Sau khi điều
chỉnh, tỉ lệ nắm giữ cổ phần của họ là: Ngân hàng Hoa Kỳ 15%, Chase Manhattan
14%, Morgan Guaran ty Trust 9%, Manufacturers Hanover 7%, Chemical Bank 8%(11).
Tổng vốn
đăng ký của Ngân hàng New York thuộc Cục Dự trữ Liên bang Mỹ là 143 triệu
đô-la, nhưng việc các ngân hàng kể trên có chi ra khoản tiền này hay không vẫn
là một câu đố. Một số nhà sử học cho rằng các ngân hàng chỉ chi ra một nửa hiện
kim, trong khi một số nhà sử học khác thì cho rằng, về cơ bản, các ngân hàng
không chi ra bất cứ hiện kim nào mà chỉ dùng hối phiếu để chi ra, và trên tài
khoản của Cục Dự trữ Liên bang Mỹ mà bản thân họ đang sở hữu chỉ là sự biến động
của mấy con số mà thôi, còn sự vận hành của Cục Dự trữ Liên bang Mỹ thực ra
chính là việc “dùng giấy thế chấp phát hành ra giấy”. Chẳng thế mà một nhà sử học
đã mỉa mai rằng, hệ thống ngân hàng dự trữ liên bang không mang tính chất “liên
bang”, cũng chẳng có “dự trữ”, và cũng không phải là “ngân hàng” nốt.
Ngày 15
tháng 6 năm 1978, uỷ ban đối ngoại của chính phủ thượng nghị viện Mỹ đã công bố
báo cáo về lợi tức của các công ty chủ chốt của nước Mỹ. Báo cáo này cho thấy rằng,
470 vị trí thành viên Hội đồng quản trị là do người của 130 công ty chủ chốt nhất
của Mỹ nắm giữ. Tính bình quân tại mỗi một công ty chủ chốt có 3,6 ghế trong hội
đồng quản trị thuộc về các nhà tài phiệt ngân hàng.
Trong đó,
Ngân hàng Hoa Kỳ đã khống chế 97 ghế Hội đồng quản trị; công ty J.P. Morgan -
99 ghế; Chemical Bank - 96 ghế; Chase Manhattan - 89 ghế; Hanover De - 89 ghế.
Ngày 3 tháng
9 năm 1914, khi Cục Dự trữ Liên bang Mỹ quyết định bán cổ phần ra công chúng, tờ
New York Times đã công bố cơ cấu cổ phần của các ngân hàng chủ yếu như sau:
National
City Bank đã phát hành 250.000 cổ phiếu, James Stillman nắm giữ 47.498 cổ phiếu;
công ty J.P. Morgan nắm giữ 14.500 cổ phiếu; William Rockefeller nắm giữ 10.000
cổ phiếu; John Rockefeller nắm giữ l~750 cổ phiếu.
Ngân hàng
thương mại quốc gia New York đã phát hành 250.000 cổ phiếu, George Berk nắm giữ
10.000 cổ phiếu; công ty J.P. Morgan - 7.800 cổ phiếu; May Hariman - 5.650 cổ
phiếu; Paul Warburg - 3.000 cổ phần; Jacob Schiff - 1.000 cổ phần, J.P. Morgan
con - 1.000 cổ phiếu. Chase Bank, George Berk nắm giữ 13.408 cổ phiếu.
Hanover
Bank, James Still nắm giữ 4.000 cổ phiếu; William Rockefeller nắm giữ 1.540 cổ
phiếu.
Kể từ khi
thành lập vào năm 1913 đến nay, Cục Dự trữ Liên bang đã cho thấy một sự thật
không thể bao biện rằng các nhà tài phiệt ngân hàng đang thao túng mạch máu tài
chính, công thương nghiệp và chính trị của nước Mỹ.
Hơn thế nữa,
các nhà tài phiệt phố Wall đều có mối quan hệ mật thiết với dòng họ Rothschild
của thành London.
Benjamin
Strong - CEO của Bankers Trust - được chọn làm Chủ tịch Hội đồng quản trị của
Ngân hàng New York thuộc Cục Dự trữ Liên bang Mỹ khoá thử nhất. “Dưới sự khống
chế của Strong, hệ thống dự trữ liên bang đã hình thành mối quan hệ khăng khít
chặt chẽ với Ngân hàng Anh và Ngân hàng Pháp.
Benjamin
Strong giữ chức Chủ tịch ngân hàng Cục Dự trữ Liên bang Mỹ ở New York mãi đến
năm 1928 thì đột ngột tử vong trong khi Quốc hội đang điều tra hội nghị bí mật
của Cục Dự trữ Liên bang cũng như giới chóp bu của ngân hàng trung ương châu
Âu. Những hội nghị bí mật này đã dẫn đến cuộc đại suy thoái năm 1929”.
14. Hội đồng
quản trị khoá một của Cục Dự trữ Liên bang Mỹ
Về sau,
Wilson đã tự thừa nhận rằng, ông ta chỉ được phép chỉ định một thành viên trong
Hội đồng quản trị của Cục Dự trữ Liên bang Mỹ và các thành viên còn lại đều do
các nhà tài phiệt ngân hàng của New York lựa chọn. Trong quá trình đề cử và bổ
nhiệm Paul Warburg vào vị trí Chủ tịch Hội đồng quản trị, thượng nghị viện yêu
cầu ông phải có mặt tại Quốc hội để trả lời chất vấn vào tháng 6 năm 1914, chủ
yếu là tìm hiểu vai trò của ông trong quá trình soạn thảo dự luật Cục Dự trữ
Liên bang, nhưng rốt cuộc, Paul đã từ chối thẳng thừng. Trong thư gửi cho Quốc
hội, ông tuyên bố rằng việc trả lời bất cứ chất vấn nào theo yêu cầu đều có thể
sẽ ảnh hưởng đến vai trò của ông trong Hội đồng quản trị Cục Dự trữ Liên bang,
vì vậy ông quyết định từ chối việc tiếp nhận đề cử vào chức Chủ tịch Hội đồng
quản trị Cục Dự trữ Liên bang Mỹ.
Tờ New York
Times ngay lập tức lên tiếng minh oan cho Paul, và trong số ra ngày 10 tháng 7
năm 1914, tờ báo này đã chỉ trích thượng nghị viện không nên chất vấn Paul một
cách hồ đồ như vậy.
Hiển nhiên
Paul là nhân vật trung tâm của Cục Dự trữ Liên bang Mỹ. Nếu không có ông, chắc
chẳng có người thứ hai nào biết được Cục Dự trữ Liên bang Mỹ rốt cuộc vận hành
như thế nào. Đối mặt với thái độ cứng rắn của ông, Quốc hội chỉ còn cách gật đầu
và đưa ra một danh sách các câu hỏi trước khi ông nhậm chức, và nếu như cảm thấy
câu hỏi nào đó “sẽ ảnh hưởng đến vai trò của mình”, Paul có thể không trả lời,
và cuối cùng thì Paul đã đành miễn cưỡng đồng ý nhưng yêu cầu được gặp mặt phi
chính thức.
Uỷ ban hỏi:
Tôi biết Ngài là người của Đảng Cộng hoà, nhưng ngay khi Roosevelt tham gia
tranh cử thì Ngài lại trở thành người đồng tình và ủng hộ Wilson (Đảng Dân chủ)?
Paul đáp:
Đúng vậy.
Uỷ ban hỏi:
Nhưng anh của Ngài (Felix Warburg) lại ủng hộ Taft (Đảng Cộng hoà)?” Paul đáp:
Đúng vậy!
Điều thú vị
là, ba cổ đông của công ty Kuhn Loeb lại ủng hộ ba người khác nhau ra tranh cử
tổng thống, trong số đó Otto Kahn ủng hộ Roosevelt cha. Giải thích của Paul là
ba người này không can thiệp vào quan điểm chính trị của nhau, bởi vì “tài
chính và chính trị không liên quan đến nhau”.
Paul vượt
qua cuộc điều trần của Quốc hội một cách thuận lợi, trở thành Chủ tịch thứ nhất
của Cục Dự trữ Liên bang Mỹ, sau đó trở thành Phó chủ tịch Hội đồng quản trị.
Ngoài Paul
ra, bốn thành viên khác của hội đồng là:
- Adolph
Miller, nhà kinh tế học, xuất thân từ Đại học Chicago do Rockefeller tài trợ và
Đại học Harvard do Morgan tài trợ.
- Charles
Hamlin, từng đảm nhiệm chức trợ lý Bộ trưởng tài chính.
- Frederick
Delano, thông gia của Roosevelt, nhà tài phiệt ngân hàng đường sắt. - WP.G
Harding, Chủ tịch First National Bank of Atlanta.
Thomas D.
Jones được tổng thống Wilson đích thân tiến cử đã bị Bộ Tư pháp Mỹ điều tra và
khởi tố, về sau tự rút lui khỏi Hội đồng quản trị.
Hai thành
viên khác là Bộ trưởng tài chính và Kiểm toán viên tiền tệ.
15. Hội đồng
tư vấn liên bang
Hội đồng tư
vấn liên bang là một chiếc camera bí mật được Paul Warburg dày công thiết kế để
khống chế Hội đồng quản trị Cục Dự trữ Liên bang Mỹ. Trong quá trình vận hành
hơn 90 năm của Cục Dự trữ Liên bang, Hội đồng tư vấn liên bang đã thực hiện một
cách hết sức xuất sắc ý tưởng năm đó của Paul, hầu như chưa có ai để ý cơ cấu
này và sự vận hành của nó, cũng chưa có nhiều công trình nghiên cứu đáng tin cậy.
Năm 1913, hạ
nghị sĩ Grass đã ra sức quảng cáo cho Hội đồng tư vấn liên bang. Ông ta nói: “Ở
đây không thể có thứ gì gian ác. Mỗi năm Hội đồng quản trị Cục Dự trữ Liên bang
sẽ hội đàm bốn lần với Hội đồng tư vấn của các nhà tài phiệt ngân hàng, mỗi một
thành viên đại diện cho Cục Dự trữ Liên bang địa phương nơi mình sống. Chúng ta
còn có thể bảo vệ lợi ích của công chúng tốt hơn sự sắp đặt này không?”
Bản thân hạ
nghị sĩ Grasse là một nhà tài phiệt ngân hàng, và ông ta không giải thích hoặc
cung cấp bất cứ chứng cứ nào cho thấy các nhà ngân hàng đã từng bảo vệ lợi ích
gì của công chúng trong lịch sử của nước Mỹ.
Hội đồng tư
vấn liên bang do 12 nhà tài phiệt ngân hàng địa phương thuộc Cục Dự trữ Liên
bang tiến cử hợp thành, mỗi năm hội đàm bốn lần với thành viên của Hội đồng quản
trị Cục Dự trữ Liên bang tại Washington. Các nhà tài phiệt ngân hàng đã đề xuất
“kiến nghị” chính sách tiền tệ cho các thành viên Hội đồng quản trị của Cục Dự
trữ Liên bang, mỗi một đại biểu đại diện cho lợi ích kinh tế của địa phương
mình, mỗi người đều có quyền bỏ phiếu như nhau, đơn giản mà hoàn toàn kín kẽ về
lý thuyết, nhưng trong sự khốc liệt tàn bạo của ngành ngân hàng thì đó hoàn
toàn lại là một bộ “quy tắc ngầm” khác.
Thật khó tưởng
tượng được tại sao một nhà ngân hàng nhỏ của Cincinnati lại ngồi chung một bàn
hội nghị với các trùm tài chính quốc tế như Paul Warburg, Morgan để đề xuất “kiến
nghị chính sách tiền tệ“ với các ông trùm tài chính này? Chỉ cần tiện tay móc
trong túi ra một tấm chi phiếu rồi ngoạch lên đó hai nét bút thì bất cứ ai
trong số hai ông trùm tài chính này cũng đủ khiến cho các nhà tài phiệt ngân
hàng nhỏ khuynh gia bại sản. Trên thực tế, sự sinh tồn của mỗi một nhà tài phiệt
ngân hàng nhỏ trong số 12 khu vực liên bang đều hoàn toàn phụ thuộc và sự ban
ơn của 5 ngân hàng lớn ở phố Wall. Năm ông trùm này có ý đem đa số các giao dịch
lớn với các ngân hàng châu Âu để chuyển thành các giao dịch nhỏ lẻ cho các
“ngân hàng vệ tinh” trong các khu vực của mình xử lý. Và càng có được những
thương vụ béo bở thì “các ngân hàng vệ tinh” càng thêm phục tùng nghe theo các
ông trùm kia. Đương nhiên, năm ông trùm kia cũng có quyền nắm giữ cổ phần của
những ngân hàng nhỏ này. Nói chung chúng ta không cần phải tưởng tượng nhiều
cũng có thể biết được kết quả mỗi khi khi các ngân hàng nhỏ “đại diện cho lợi
ích khu vực của mình” này cùng nhau thảo luận chính sách tiền tệ của Mỹ với năm
ông trùm tài chính kia.
Cho dù “kiến
nghị” của Hội đồng tư vấn liên bang chẳng có sức trói buộc lắm đối với việc quyết
sách của hội đồng quản trị Cục Dự trữ Liên bang, nhưng đều đặn mỗi năm bốn lần,
các nhà tài phiệt ngân hàng không ngại khổ cực vi hành đến Washington để hội họp
với năm ông trùm phố Wall. Có phải họ đến Washington chỉ để gặp gỡ trà nước với
năm nhà tài phiệt đó? Nên nhớ rằng, họ là những con người vô cùng bận rộn cùng
lúc phải kiêm nhiệm chức chủ tịch Hội đồng quản trị của 63 công ty như Morgan.
Nếu như sự “kiến nghị” của họ không nhận được bất cứ sự suy xét nào, mà họ vẫn
vui vẻ đó thực sự là điều hết sức kỳ lạ.
16. Chân
tướng ở đâu?
Tuyệt đại da số người Mỹ hoàn toàn
không thể hiểu được chính xác phương thức vận hành của các thể chế cho vay quốc
tế. Sổ sách của cục dự trữ liên bang Mỹ vốn dĩ chưa từng được kiểm tra. Nó hoàn
toàn được vận hành bên ngoài phạm vi khống chế của Quốc hội, và nó đang thao
túng nguồn cung ứng tín dụng của nước Mỹ.
Thượng nghị
sĩ Barry Goldwater
Để tạo ra
giá cao, Cục Dự trữ Liên bang Mỹ chỉ cần hạ thấp lãi suất xuống, nhằm mở rộng
hoạt động tín dụng và tạo nên một thị trường cổ phiếu phồn vinh. Ngay sau khi
ngành công thương đã quen với môi trường lãi suất như vậy, Cục Dự trữ Liên bang
Mỹ lại quyết định nâng cao lãi suất một cách tuỳ ý nhằm chấm dứt sự phồn vinh
này.
Cục Dự trữ
Liên bang Mỹ và các nhà tài phiệt ngân hàng nắm giữ Cục Dự trữ Liên bang có thể
dùng khả năng điều chỉnh lãi suất nhẹ nhàng khiến cho giá thị trường dao động
lên xuống một cách hài hoà như con lắc cũng có thể điều chỉnh mạnh lãi suất khiến
cho giá cả thị trường dao động dữ dội. Bất kể là tình hình nào, nó sẽ nắm giữ
tin tức nội bộ của tình hình tài chính và biết trước sự thay đổi sắp đến của sự
việc.
Đây là điều
mà không có một chính phủ nào có thể có được (quyền biết trước thông tin thị
trường). Và đây cũng là điều kỳ lạ nhất và nguy hiểm nhất mà giai cấp đặc quyền
thiểu số nắm giữ. Hệ thống này là thuộc tư hữu, toàn bộ mục đích vận hành của
nó chính là lợi dụng tiền của người khác để thu được lợi nhuận lớn nhất có thể.
Họ biết được khi nào thì cần tạo ra khủng hoảng để thu lợi. Tương tự họ cũng biết
phải dừng khủng hoảng vào lúc nào. Khi tài chính được khống chế thì lạm phát tiền
tệ và siết chật tiền tệ đều có hiệu quả như nhau đối với mục đích của họ.
Mỗi một phiếu
dự trữ liên bang (Federal Reserve Note) đều đại diện cho một khoản nợ chưa trả
của một đồng đô-la Cục Dự trữ Liên bang.
Báo cáo tiền
tệ, Ngân hàng hạ viện và uỷ ban tiền tệ Ngân hàng khu vực của Cục Dự trữ Liên
bang Mỹ không phải là cơ cấu chính phủ mà là công ty độc lập do tư nhân nắm giữ
và địa phương kiểm soát.
Cục Dự trữ
Liên bang Mỹ là một trong những cơ cấu hủ bại nhất trên thế giới. Trong số những
người có thể nghe chúng ta nói (diễn thuyết của quốc hội), chẳng một ai biết được
trên thực tế quốc gia của chúng ta đang bị các nhà tài phiệt ngân hàng quốc tế
thống trị.
Có một số
người cho rằng, ngân hàng Cục Dự trữ Liên bang là cơ cấu của Chinh phủ Mỹ. Trên
thực tế, ngân hàng Cục Dự trữ Liên bang không phải là cơ cấu chinh phủ mà là cơ
cấu lũng đoạn hoạt động tín dụng do tư nhân chi đạo. Cục Dự trữ Liên bang đang
bóc lột nhân dân Mỹ vì lợi ích của bản thân họ cũng như lợi ích của những kẻ bịp
bợm ngoại quốc.
Khi viết chi
phiếu, trong tài khoản của bạn và tôi cần phải có đủ tiền để bảo đảm cho kim ngạch
của chi phiếu đó. Thế nhưng, khi xuất chi phiếu, trong tài khoản của Cục Dự trữ
Liên bang Mỹ chẳng có bất cứ món tiền nào để bảo đảm. Đây cũng là lúc Cục Dự trữ
Liên bang Mỹ sáng tạo ra tiền tệ.
Từ năm 1913 đến
năm 1949, nguồn vốn của Cục Dự trữ Liên bang Mỹ từ 143 triệu đô-la đã tăng vọt
lên 45 tỉ đô-la. Số tiền này trực tiếp chảy vào hầu bao của các cổ đông ngân
hàng Cục Dự trữ Liên bang Mỹ.
Rất nhiều vị
tổng thống đã đưa ra lời cảnh báo về sự đe doạ của quyền lực tiền tệ. Nhiều ghi
chép của quốc hội và các án lệ pháp luật đã nói rõ ràng tính chất tư hữu của Cục
Dự trữ Liên bang Mỹ, nhưng có bao nhiêu người dân Mỹ, người dân Trung Quốc cũng
như các quốc gia khác biết được điều này? Đây mới là điểm đáng sợ của vấn đề!
Chúng ta cho rằng giới truyền thông uy quyền của phương Tây “tự do công bằng” sẽ
phơi bày tất cả, nhưng trên thực tế, chân tướng của vấn đề luôn bị giới truyền
thông cố ý “bỏ qua”. Vậy còn sách giáo khoa của nước Mỹ thì sao? Vốn dĩ các loại
sách giáo khoa Mỹ đều lấy việc lựa chọn những “nội dung lành mạnh” cho thế hệ
sau mà bỏ qua các loại quỹ mang danh nghĩa của các nhà ngân hàng quốc tế.
Trước khi
qua đời, tổng thống Wilson đã thừa nhận rằng mình đã bị lừa dối trong các vấn đề
liên quan đến Cục Dự trữ Liên bang Mỹ. Ông đã day dứt khi nói rằng: “Tôi đã vô
ý huỷ hoại tổ quốc mình”.
Khi Cục Dự
trữ Liên bang Mỹ chính thức đi vào hoạt động ngày 25 tháng 10 năm 1914, cuộc
chiến tranh thế giới lần thứ nhất đã bùng nổ. Lại một sự “trùng hợp” hoàn hảo về
thời gian! Các cổ đông của Cục Dự trữ Liên bang Mỹ đang hồ hởi chờ một mẻ cá lớn?
0 comments:
Post a Comment