Nếu mọi khoản nợ ngân hàng đều được
hoàn trả thì tiết kiệm ngân hàng sẽ không tồn tại nữa và toàn bộ dòng tiền sẽ cạn
kiệt. Một ý nghĩ thật là khủng khiếp. Chúng ta (Cục Dự trữ Liên bang Mỹ) hoàn
toàn dựa vào ngân hàng thương mại. Mỗi một đồng dô-la của chúng ta lưu thông, bất
luận là hiện kim hay tín dụng, đều cần phải có người vay mới có thể được tạo ra
và lưu thông. Nếu như ngân hàng thương mại có đủ nguồn tiền tệ thì nền kinh tế
của chúng ta sẽ trở nên phồn vinh; ngược lại, chúng ta sẽ rơi vào suy thoái.
Chúng ta tuyệt đối không có một hệ
thống tiền tệ mang tính vĩnh viễn. Khi nắm được mấu chốt của toàn bộ vấn đề hoang
đường của hệ thống tiền tệ cũng như sự giúp đỡ vô tư đến khó tin của Cục dự trữ
liên bang Mỹ-chúng ta sẽ thấy rằng tiền tệ là vấn đề cần phải được điều tra và
suy nghĩ, và tầm quan trọng của nó nằm ở chỗ: trừ khi người dân hiểu được một
cách sâu rộng hệ thống tiền tệ này và áp dụng các biện pháp nhằm chi phối nó, nếu
không, sự văn minh hiện tại của chúng ta cũng sẽ tiêu vong.
Robert
Hamfeir, Giám đốc Ngân hàng Attalanta, Cục Dự trữ Liên bang Mỹ
Đồng đô-la Mỹ
chính là một trường hợp điển hình nhất trong số các đồng tiền vay mượn. Nó được
tạo ra cùng lúc với quá trình sinh ra nợ nhưng cũng đồng thời bị triệt tiêu khi
nợ được hoàn trả. Mỗi một đồng đô-la Mỹ trong lưu thông đều có giá trị như một
hoá đơn ghi nợ mà mỗi hoá đơn ghi nợ như vậy đều sinh ra lãi hàng ngày và không
ngừng tăng lên theo kiểu lãi mẹ đẻ lãi con. Vậy những khoản thu nhập lãi suất
lên đến con số khổng lồ này thuộc về ai? Câu trả lời là: thuộc về hệ thống ngân
hàng đã tạo ra đồng đô-la Mỹ. Lợi tức của đồng đô-la vay mượn là phần nằm ngoài
tổng lượng tiền tệ vốn có, và tất nhiên, nguồn lợi tức này đòi hỏi đồng đô-la
vay mượn mới phải được tạo ra bên cạnh tổng lượng tiền tệ hiện có, hay nói cách
khác, người dân vay tiền càng nhiều thì nguồn tiền cho vay sẽ càng tăng.
Việc vay mượn
và tiền bạc gắn chặt với nhau mà kết quả logic tất yếu của việc này chính là tiền
cho vay mãi mãi tăng lên, cho đến khi áp lực lãi suất của món nợ ấy vượt quá sự
phát triển của nền kinh tế và dẫn đến sự sụp đổ của toàn bộ hệ thống. Tiền tệ
hoá dịch vụ vay mượn là một trong những nhân tố gây bất ổn nghiêm trọng nhất
trong nền kinh tế hiện đại và nó thông qua dự chi tương lai để thoả mãn nhu cầu
hiện tại. Câu nói của người Trung Quốc xưa đại loại “thu không bù chi” chính là
muốn đề cập đến ý này.
Một loại tiền
tệ khác, đó chính là tiền tệ phi vay nợ mà vàng bạc là đại diện. Loại tiền tệ
này không cần đến sự hứa hẹn của bất cứ người nào, không phải là món nợ của bất
cứ ai, và thứ mà nó đại diện chính là thành quả lao động đã hoàn thành của loài
người, là thứ có được từ sự tiến hoá tự nhiên trong thực tiễn xã hội kéo dài
hàng mấy nghìn năm của loài người. Nó không cần đến sự cưỡng chế của bất cứ thế
lực nào, có thể vượt qua mọi thời đại và ranh giới quốc gia và là phương pháp
thanh toán cuối cùng nhất trong hệ thống tiền tệ.
Trong tất cả
các loại tiền tệ, vàng bạc đồng nghĩa với việc “sở hữu thực tế”, còn tiền pháp
định lại đại diện cho “phiếu nợ + sự hứa hẹn”. Và hàm lượng vàng của hai loại
tiền này có sự khác nhau về bản chất.
Đồng Nhân
dân tệ của Trung Quốc nằm giữa ranh giới hai loại tiền này. Mặc dù trước mắt,
trong hệ thống đồng Nhân dân tệ vẫn đang tồn tại yếu tố “dịch vụ vay mượn hoá
tiền tệ”, nhưng nếu căn cứ vào chủ thế của đồng Nhân dân tệ thì nó vẫn thể hiện
đủ chất và lượng của sản phẩm và dịch vụ đã hoàn thành trong quá khứ. Việc phát
hành đồng Nhân dân tệ không hoàn toàn giống như việc phát hành đồng đô-la Mỹ
Đồng đô-la Mỹ
cần phải dùng nợ quốc gia (công trái) để làm thế chấp. Do bởi Ngân hàng trung
ương tư hữu phát hành cho nên đồng Nhân dân tệ tránh được khả năng các khoản
chi trả lợi tức khổng lồ rơi vào túi tư nhân. Nhìn từ góc độ này, thuộc tính của
đồng Nhân dân tệ có vẻ gần hơn với vàng bạc. Đồng thời, do không có vàng bạc
làm chỗ dựa nhưng lại có thuộc tính cơ bản của đồng tiền pháp định, đồng Nhân
dân tệ cần phải dựa vào sức cưỡng chế của chính phủ mới có thể đảm bảo giá trị
tiền tệ.
Sự hiểu biết
về chế độ tiền tệ pháp định của phương Tây, đặc biệt là bản chất của đồng đô-la
Mỹ, là tiền đề cần thiết cho sự cải cách tương lai của đồng Nhân dân tệ.
1. Hệ thống
dự trữ cục bộ - Nơi khởi nguồn của nạn lạm phát tiền tệ
Ngân hàng (hiện đại) vốn dĩ là không
công bằng và chứa đựng nhiều tội ác. Các nhà tài phiệt ngân hàng có cả trái đất.
Họ tước đoạt tất cả mọi thứ của con người, chỉ để lại cho họ quyền tích luỹ và
lưu giữ tiền tệ. Nhưng, nếu như quyền tích luỹ và lưu giữ tiền tệ lại bị tước
đoạt nốt thì mọi vận may của sự giàu có đều sẽ không tồn tại. Nếu không có những
quyền này, thế giới hạnh phúc và tốt đẹp hơn. Nhưng nếu vẫn cam tâm tiếp tục
làm nô lệ cho các nhà ngân hàng và chấp nhận chi trả những khoản phí cho sự nô
dịch của họ thì các bạn cứ việc tích luỹ và lưu giữ tiền bạc.
J. Stamp -
người giàu thứ hai nước Anh
Ban đầu, nhà
ngân hàng chỉ thuần tuý cung cấp dịch vụ lưu giữ vàng bạc của người gửi. Khi
đem vàng bạc giao cho ngân hàng, người gửi được phát một biên lai chuẩn được gọi
là “tín phiếu ngân hàng”. Những tờ tín phiếu này dần dần trở thành công cụ giao
dịch trong xã hội và được gọi là tiền tệ.
Theo đó,
ngân hàng có thể đem “tín phiếu ngân hàng” đổi thành vàng bất cứ lúc nào. Nguồn
thu nhập chủ yếu của ngân hàng chính là “phí uỷ thác quản lý“ do người gửi chi
trả.
Dần dần, các
nhà ngân hàng “thông minh” nhận ra một điều rằng, thông thường có rất ít người
gửi vàng yêu cầu đem “chứng chỉ ngân hàng” đổi thành vàng, và khi nhìn thấy
vàng nằm bất động trong kho như vậy, nhà ngân hàng không khỏi cảm thấy ngứa
ngáy, và câu hỏi khiến họ băn khoăn là làm thế nào để “đánh thức” nguồn vốn
đang ngủ yên này?
Thêm vào đó,
trong xã hội luôn có một số người cần sử dụng tiền, vậy là các nhà ngân hàng
bèn mở dịch vụ cho vay, người vay chỉ cần trả lãi suất cho ngân hàng đúng hạn.
Khi người
vay tiền đến ngân hàng, các nhà ngân hàng đã dùng nhiều biện pháp như phát hành
thêm hoá đơn hay “tín phiếu ngân hàng” để kiếm lời. Chỉ cần không phát hành
thêm quá nhiều “tín phiếu ngân hàng”, ngân hàng sẽ không tạo ra sự hoài nghi của
người gửi. Kinh nghiệm của các nhà ngân hàng đã cho thấy rằng, nếu số “chứng chỉ
ngân hàng” được phát hành thêm gấp 10 lần thì ngân hàng sẽ an toàn.
Do mức lãi
suất từ việc cho vay này được coi như thứ tiền của bất ngờ không dưng mà có,
càng nhiều càng tốt nên các nhà ngân hàng bắt đầu hiện diện khắp nơi để lôi kéo
khách hàng đến gửi tiền cho họ, và để thu hút người gửi, thay vì thu lệ phí gửi
vàng như trước đây, họ bắt đầu chi trả lãi suất cho người gửi.
Khi thực hiện
dịch cho vay vàng, trên thực tế, các nhà ngân hàng đã cung cấp cho các khách
hàng trước đây của họ hai loại sản phẩm khác nhau hoàn toàn: loại thứ nhất là dịch
vụ “lưu gửi tiền vàng” thuần tuý, loại thứ hai là “đầu tư tiết kiệm”. Sự khác
biệt về bản chất của hai loại dịch vụ này nằm ở quyền sở hữu tiền vàng. Trong
tình huống thứ nhất, khách hàng có quyền sở hữu tuyệt đối đối với lượng tiền
vàng đang lưu gửi, nhà ngân hàng đảm bảo với khách hàng rằng họ có thể cầm biên
lai đến để rút tiền ra bất cứ lúc nào họ muốn. Còn ở trường hợp thứ hai, khách
hàng tạm thời mất quyền sở hữu đối với lượng vàng đã gửi vào tiết kiệm, và nhà
ngân hàng sử dụng khoản tiền này để quay vòng cho vay. Ngay sau khi ngân hàng
thu hồi khoản đầu tư từ nguồn vàng này, khách hàng lưu gửi mới có thể khôi phục
lại quyền sở hữu vốn có của mình.
Trong loại
hình dịch vụ thứ nhất, “tín phiếu ngân hàng” tương ứng là dự trữ toàn ngạch;
còn trong loại hình dịch vụ thứ hai, “tín phiếu ngân hàng” tương ứng là “giấy nợ
+ sự hứa hẹn”. Các tín phiếu ngân hàng này được phát hành với số lượng nhiều
hơn lượng vàng thực tế của ngân hàng và đó được coi là một hình thức dự trữ cục
bộ. Ngay từ khi phát hành ra, loại tín phiếu ngân hàng theo kiểu “giấy nợ + sự
hứa hẹn” như thế này luôn ẩn chứa nguy cơ rủi ro đồng thời dễ gây ra nạn lạm
phát tiền tệ. Đặc tính này đã cho thấy một điều rằng, tín phiếu ngân hàng này
hoàn toàn không phù hợp với vai trò giao dịch hàng hoá và dịch vụ trong xã hội
đồng thời không thể hiện được chức năng thước đo cơ bản của hoạt động kinh tế.
Một tính chất
đặc trưng của hệ thống dự trữ vàng cục bộ chính là sự mơ hồ về giới hạn của hai
loại sản phẩm và dịch vụ ngân hàng. Các nhà ngân hàng đã tiến hành “tiêu chuẩn
hoá” trong việc thiết kế tín phiếu ngân hàng, khiến cho người bình thường rất
khó phân biệt được sự khác biệt về bản chất của hai loại chứng chỉ ngân hàng
này. Vì vậy, hàng trăm năm nay, các ngân hàng Anglo-Saxons đã bị liên đới trong
nhiều vụ kiện tụng. Trong khi khách hàng phẫn nộ phản đối các nhà ngân hàng tự
ý đem vàng bạc của họ cho vay lãi thì các nhà ngân hàng lại tuyên bố rằng, họ
có quyền sử dụng số tiền của khách hàng mà không cần phải giải thích cho khách
hàng biết mục đích sử dụng, miễn sao khi rút tiền, khách hàng
không phải
than phiền gì. Một trong những vụ án nổi tiếng nhất chính là vụ Foley kiện Ngân
hàng Hill mà phán quyết của quan toà được thể hiện như sau:
Khi được gửi
vào ngân hàng thì tiền không còn thuộc về khách hàng nữa; lúc này, tiền đã thuộc
về ngân hàng. Ngân hàng có nghĩa vụ hoàn trả lại tiền cho khách hàng khi có yêu
cầu. Và như vậy, ngân hàng có toàn quyền sử dụng số tiền đó mà không có nghĩa vụ
phải trả lời khách hàng về việc số tiền này có nguy cơ gì không, có bị dùng vào
việc đầu cơ gây hại hay không. Ngân hàng chỉ có nghĩa vụ bảo quản nguyên vẹn số
tiền của tiền khách hàng theo sự ràng buộc của hợp đồng.
Theo pháp luật,
phán quyết này của quan toà nước Anh được coi như một bước ngoặt quan trọng
trong lịch sử tiền tệ theo đó, tiền bạc của khách hàng gửi vào ngân hàng không
còn được luật pháp bảo hộ. Điều này đã xâm phạm quyền tài sản của công dân một
cách nghiêm trọng. Sau việc này, ngân hàng Anglo-Saxons hoàn toàn từ chối thừa
nhận tính hợp pháp của dịch vụ “ủy thác quản lý tiền gửi”, và việc dự trữ toàn
ngạch đã mất đi tính hợp pháp, mọi khoản tiền gửi của dân chúng đều có thể bị
ngân hàng sử dụng vào việc đầu tư - một hình thức đầu tư mạo hiểm.
Trong chiến
dịch Waterloo năm 1815, vì nắm được kết cục bại trận sớm hơn 24 giờ so với cơ
quan tình báo Anh nên dòng họ Rothschild đã kiểm soát được thị trường công trái
Anh quốc, khống chế luôn quyền phát hành tiền tệ của đế quốc Anh. Sau đó không
lâu, gia tộc này lại tiếp tục khống chế việc phát hành tiền tệ của các quốc gia
khác như Pháp, Áo, Phổ, Ý để từ đó nắm giữ quyền định giá thị trường vàng thế
giới trong suốt gần 200 năm. Mạng lưới ngân hàng do Rothschild, Schiff, Warburg
và các nhà ngân hàng người Do Thái xây dựng tại các quốc gia trên thực tế đã tạo
nên hệ thống tiền tệ quốc tế và trung tâm thanh toán thế giới sớm nhất trong lịch
sử. Chỉ bằng cách gia nhập vào mạng lưới kết toán của họ thì các ngân hàng khác
mới có thể lưu hành ngân phiếu xuyên quốc gia. Từng bước một, các nhà tài phiệt
ngân hàng đã hình thành nên một cartel (tập đoàn lũng đoạn) trong lĩnh vực tài
chính ngân hàng. Các nguyên tắc do họ đặt ra đã trở thành “thông lệ quốc tế” của
ngành tài chính thế giới hiện nay.
Cartel là lực
lượng thúc đẩy quan trọng nhất của hệ thống dự trữ cục bộ, đồng thời cũng là
đơn vị được hưởng lợi nhiều nhất. Trong khi đạt đến một quy mô tương đối, lực
lượng này tất yếu phải ủng hộ, thậm chí là trực tiếp thiết lập nên những quy tắc
chính trị cũng như quy tắc luật pháp nhằm đảm bảo quyền lợi của mình.
Năm 1913, một
phiên bản của của hệ thống dự trữ cục bộ đã được tạo dựng thành công tại Mỹ - Cục
Dự trữ Liên bang (FED). Như vậy, đồng tiền của hệ thống dự trữ toàn ngạch đã dần
dần bị “tiền xấu” (không được bảo đảm bằng vàng) chi phối và loại bỏ ra khỏi cuộc
cạnh tranh. Tiền giấy bạc và tiền giấy vàng đo chính phủ Mỹ phát hành thời đó
được xem là thứ may mắn còn tồn tại được của hệ thống dự trữ toàn ngạch được
chính phủ đảm bảo bằng vàng bạc thật.
Một ounce
vàng bạc có giá trị tương đương với số tiền giấy đối ứng. Cho dù mọi khoản nợ vốn
có của hệ thống ngân hàng có bị hoàn trả hết thì trên thị trường vẫn lưu thông
đồng đô la vàng bạc, và kinh tế vẫn có thể phát triển bình thường giống như trước
khi Cục Dự trữ Liên bang Mỹ được thành lập vào năm 1913.
Từ năm 1913
đến nay, đồng đô-la “xấu” trên thị trường của Cục Dự trữ Liên bang Mỹ đã dần dần
loại bỏ đồng đô-la “tốt” (được bảo đảm bằng vàng) của hệ thống dự trữ toàn ngạch.
Vì muốn tạo ra một chế độ dự trữ cục bộ nhằm lũng đoạn thế giới tài chính hiện
hành đồng thời hất cẳng chính phủ ra khỏi lĩnh vực phát hành tiền tệ, các nhà
ngân hàng quốc tế đã huy động mọi kỹ năng có thể, để rồi cuối cùng đã loại bỏ
thành công đồng đô-la bạc vào thập niên 60 của thế kỷ 20, đồng thời cắt đứt được
mối liên hệ cuối cùng giữa vàng và đồng đô-la vào năm 1971. Từ đây, chế độ dự
trữ cục bộ đã hoàn thành sứ mệnh lũng đoạn của mình.
2. Đồng
đô-la vay mượn được “biến hoá” như thế nào?
Ngân hàng
New York của Cục Dự trữ Liên bang Mỹ miêu tả đồng đô-la như thế này, “đồng
đô-la không thể hoán đổi thành vàng hay bất cứ tài sản nào khác của Bộ tài
chính. Nó không mang ý nghĩa thực tế mà chỉ có tác dụng ghi nợ Ngân hàng chỉ tạo
ra tiền tệ khi được người đi vay cam kết hoàn các khoản vay của ngân hàng. Ngân
hàng thông qua “tiền tệ hoá” các khoản nợ thương mại và tư nhân để tạo ra tiền
tệ”. Sự giải thích của Ngân hàng Chicago thuộc Cục Dự trữ Liên bang Mỹ là: “Ở Mỹ,
bất luận tiền giấy hay là tài khoản ngân hàng đều không có đủ giá trị nội tại
như một loại hàng hoá. Đồng đô-la Mỹ chẳng qua chỉ là một tờ giấy. Còn tài khoản
ngân hàng cũng chỉ là những con số ước lượng ghi trên giấy. Tiền kim loại tuy
có một giá trị nội tại nhất định, nhưng lại thường thấp hơn nhiều so với mệnh
giá của chúng.
Vậy rốt cuộc,
điều gì đã khiến cho những công cụ tiền tệ như ngân phiếu, tiền giấy, tiền đúc
kim loại được người ta tiếp nhận theo đúng mệnh giá của chúng trong việc hoàn nợ
cũng như các công dụng thanh toán khác? Câu trả lời là lòng tin của con người.
Người ta tin rằng bất cứ lúc nào, họ có thể dùng những loại tiền tệ này để hoán
đổi thành tài sản khác. Một phần nguyên do trong vấn đề này là chính phủ đã sử
dụng pháp luật để ban hành các quy định nên các loại tiền pháp định bắt buộc phải
được tiếp nhận”.
Nói cách
khác, việc tiền tệ hoá dịch vụ cho vay đã tạo ra đồng đô-la, còn mệnh giá của đồng
đô-la lại phải do một ngoại lực tác động cưỡng chế. Vậy làm thế nào mà dịch vụ
cho vay nợ lại biến thành đô-la được? Nếu muốn hiểu rõ quá trình này, chúng ta
cần dùng đến kính hiển vi để quan sát tỉ mỉ cơ chế vận hành hệ thống tiền tệ của
Mỹ.
Các độc giả
không có chuyên môn về tài chính có lẽ cần phải đọc kỹ nội dung dưới đây mới có
thể hiểu được quy trình tạo ra tiền tệ của Cục Dự trữ Liên bang Mỹ và hệ thống
ngân hàng. Đây là một bí mật thương mại quan trọng nhất của ngành tài chính
phương Tây.
Do chính phủ
Mỹ không có quyền phát hành tiền tệ mà chỉ có quyền phát hành công trái, sau đó
đem công trái nộp cho Cục Dự trữ Liên bang làm vật thế chấp để có thể phát hành
tiền tệ thông qua Cục Dự trữ Liên bang Mỹ và hệ thống ngân hàng thương mại mà
ngọn nguồn của đồng đô-la Mỹ nằm ở công trái.
Bước thứ nhất,
Quốc hội phê chuẩn quy mô phát hành công trái, Bộ tài chính sẽ thiết kế công
trái thành nhiều loại khác nhau, trong đó loại có kỳ hạn một năm thì gọi là
T-bills (Treasury Bills), loại có kỳ hạn từ 2 đến 10 năm thì gọi là T-Notes,
còn loại có kỳ hạn 30 năm gọi là T-bonds. Những công trái này có mức lãi suất
khác nhau và thời hạn khác nhau, được tiến hành phát mãi công khai trên thị trường.
Cuối cùng, Bộ tài chính sẽ đem toàn bộ số công trái không phát mãi được trong
giao dịch chuyển qua Cục Dự trữ Liên bang, và Cục Dự trữ Liên bang sẽ thu vào
toàn bộ. Trên sổ sách của Cục Dự trữ Liên bang Mỹ, những công trái này sẽ được
ghi vào mục “Tài sản chứng khoán” (Securities Asset).
Do chính phủ
Mỹ dùng tiền thu thuế trong tương lai làm thế chấp công trái nên công trái của
nước này được coi là “tài sản đáng tin cậy nhất” trên thế giới. Ngay sau khi
thu được khoản tài sản này, Cục Dự trữ Liên bang Mỹ có thể sử dụng nó để tạo ra
một dạng tiền nợ (Liability) được gọi là “chi phiếu Cục Dự trữ Liên bang Mỹ”.
Đây là bước đi quan trọng trong quá trình “biến không thành có”. Tuy nhiên, loại
chi phiếu này của Cục Dự trữ Liên bang chẳng có bất cứ loại tiền nào có thể đảm
bảo.
Đây là một
bước được thiết kế hết sức tinh vi dưới sự nguỵ trang khéo léo. Sự tồn tại của
loại chi phiếu này khiến cho chính phủ càng dễ khống chế cán cân cung cầu khi
phát mãi công trái. Cục Dự trữ Liên bang Mỹ thu lãi từ khoản tiền cho chính phủ
vay, còn chính phủ thì nhận tiền một cách hợp pháp mà không để lộ ra dấu vết
trong việc ấn hành một lượng lớn tiền giấy. Rõ ràng, Cục Dự trữ Liên bang Mỹ đã
tay không mà bắt được giặc, mọi con số trong sổ sách kế toán hoàn toàn cân đối,
tài sản công trái cân bằng với số nợ. Toàn bộ hệ thống ngân hàng được bao bọc một
cách khéo léo trong lớp vỏ nguỵ trang này.
Chính bước
đi đơn giản mà tối quan trọng này đã tạo nên sự mất công bằng lớn nhất trên thế
giới. Số tiền đóng thuế trong tương lai của người dân đã được chính phủ thế chấp
cho ngân hàng tư nhân với mục đích vay đô-la. Và cũng bởi phải vay của ngân
hàng tư nhân, nên chính phủ phải chịu một mức lãi suất lớn. Sự bất công ấy thể
hiện ở chỗ:
Thứ nhất,
không nên đem khoản tiền đóng thuế trong tương lai của người dân đi thế chấp, bởi
khoản tiền đó vẫn còn chưa được kiếm ra trên thực tế. Điều đó cũng có nghĩa rằng,
việc thế chấp cả tương lai tất yếu sẽ khiến cho sức mua của tiền tệ trở nên giảm
giá trị, từ đó phương hại đến vấn đề tích luỹ của người dân.
Thứ hai, thuế
thu được trong tương lai của dân càng không nên thế chấp cho ngân hàng trung
ương tư hữu. Việc các nhà tài phiệt ngân hàng hầu như không phải bỏ tiền ra mà
bỗng dưng lại được hứa hẹn bảo đảm bằng tiền nộp thuế trong tương lai của người
dân quả là một chiến thuật “tay không bắt giặc” điển hình.
Thứ ba, vì mắc
nợ ngân hàng với khoản lợi tức khổng lồ nên chính phủ buộc phải dựa vào nguồn
đóng thuế của người dân. Như vậy, điều này cuối cùng lại trở thành gánh nặng của
người dân. Người dân không chỉ bị thế chấp tương lai của mình một cách vô thức
mà còn phải đóng thuế thật nhanh để chính phủ còn có tiền trả lãi cho ngân hàng
trung ương tư hữu. Lượng phát hành đồng đô-la Mỹ càng lớn thì mọi thứ thuế má
càng đè nặng lên vai người dân, và cái vòng luẩn quẩn ấy cứ tồn tại đời đời kiếp
kiếp.
Bước thứ
hai, ngay sau khi chính phủ liên bang nhận được “chi phiếu của Cục Dự trữ Liên
bang Mỹ“ cùng với chữ ký và con dấu đóng phía sau, tấm chi phiếu thần kỳ này lại
được gửi vào ngân hàng của Cục Dự trữ Liên bang Mỹ và biến thành khoản “tiết kiệm
chính phủ“ (Governmen Deposits) và hiện diện trên tài khoản của chính phủ ở Cục
Dự trữ Liên bang Mỹ.
Bước thứ ba,
ngay khi chính phủ bắt đầu tiêu tiền, các chi phiếu chính phủ sẽ tạo nên đợt
sóng tiền tệ thứ nhất vỗ vào nền kinh tế. Các công ty và cá nhân nhận những chi
phiếu này sẽ đua nhau đem gửi chúng vào tài khoản của họ tại ngân hàng thương mại
và số phiếu đó sẽ trở thành khoản tiết kiệm ngân hàng thương mại (Commercial
Bank Deposits). Lúc này, chúng thể hiện vai trò kép của mình. Một mặt, chúng là
tiền ký gửi vào ngân hàng, và bởi vì những khoản tiền này thuộc quyền sở hữu của
người gửi nên sớm muộn cũng phải trả lại cho họ. Nhưng mặt khác, những chi phiếu
này lại cấu thành “vốn” của ngân hàng nên ngân hàng có thể sử dụng để cho vay.
Tất cả mọi thứ trên sổ sách kế toán đều vẫn cân bằng. Thế nhưng, ngân hàng
thương mại lại dựa vào công cụ hữu hiệu là nguồn dự trữ cục bộ để bắt đầu công
việc “sáng tạo” ra tiền tệ.
Bước thứ tư,
trên sổ sách của ngân hàng, tiền tiết kiệm tại ngân hàng thương mại được tái
phân loại thành “dự trữ ngân hàng” (Bank Reserves). Lúc này, từ tài sản thông
thường của ngân hàng, loại tiết kiệm này đã trở thành nguồn tiền dự trữ có khả
năng tạo ra đồng tiền mới. Theo hệ thống dự trữ cục bộ, Cục Dự trữ Liên bang Mỹ
cho phép ngân hàng thương mại được trích 10% tiền ký gửi làm Quỹ dự trữ (thông
thường, ngân hàng Mỹ chỉ giữ lại một khoản hiện kim tương đương 1- 2% tổng số
tiền ký gửi, một khoản ngân phiếu tương đương 8- 9% tổng kim ngạch tiết kiệm
trong kho tiền tệ của mình để làm Quỹ dự trữ và cho vay 90% khoản tiết kiệm còn
lại).
Như vậy, 90%
khoản tiết kiệm này sẽ được các ngân hàng sử dụng để phát hành tín dụng.
Tuy nhiên,
có một vấn đề phát sinh là, ngay sau khi 90% số tiền ký gửi này được sử dụng để
cho người khác vay, nếu người gửi muốn rút tiền thì phải làm thế nào?
Thực ra, khi
việc cho vay xảy ra, số tiền cho vay này không còn là những khoản tiền gửi ban
đầu mà đã trở thành một khoản tiền mới được sinh ra từ quá trình “biến không
thành có”. Số tiền mới này khiến cho tổng số tiền mà ngân hàng nắm giữ lập tức
tăng lên 90% so với tiền cũ. Điểm khác biệt so với tiền cũ nằm ở chỗ, tiền mới
có thể đem lại nguồn lợi tức cho ngân hàng. Đây chính là làn sóng tiền tệ thứ
hai xô vào nền kinh tế. Ngay khi làn sóng tiền tệ thứ hai kéo ngược về ngân
hàng thương mại thì tiền mới lại sinh ra nhiều đợt sóng tiếp sau nữa với hạn ngạch
giảm dần.
Ngay khi đợt
sóng thứ hai mươi mấy kết thúc, dưới sự vận hành nhịp nhàng giữa Cục Dự trữ
Liên bang Mỹ và ngân hàng thương mại, cứ một đô-la công trái có thể tạo ra mười
đô-la Mỹ trong lưu thông. Nếu lượng phát hành công trái cũng như lượng tiền được
tăng thêm từ các đợt sóng liền tệ vượt quá nhu cầu tăng trưởng kinh tế thì sức
mua của đồng tiền cũ sẽ giảm xuống và đây chính là nguyên nhân cơ bản tạo ra nạn
lạm phát tiền tệ. Từ năm 2001 đến 2006, khi Mỹ phát hành thêm 3.000 tỉ đô-la Mỹ
công trái, một phần tương đối lớn trong số đó được trực tiếp lưu thông. Thêm
vào đó, việc chính phủ thu hồi và chi trả lợi tức công trái của nhiều năm trước
đã khiến cho đồng đô-la sụt giá thảm hại, trong khi giá nhiều loại nhu yếu phẩm,
bất động sản, dầu lửa, giáo dục, y tế, bảo hiểm lại luôn tăng lên.
Tuy nhiên, đại
đa số công trái phát hành thêm hoàn toàn không được trực tiếp nhập vào hệ thống
ngân hàng mà được các ngân hàng trung ương nước ngoài, các tổ chức phi tài
chính của Mỹ hoặc các cá nhân mua vào. Trong tình huống này, do người mua trả bằng
đồng đô-la thực của mình nên đô-la mới hoàn toàn không được tạo ra. Chỉ khi nào
Cục Dự trữ Liên bang và bộ máy ngân hàng của Mỹ mua công trái thì đồng đô-la mới
được sản sinh ra. Đây chính là nguyên nhân để nước Mỹ có thể tạm thời khống chế
nạn lạm phát tiền tệ. Nhưng số công trái được nắm giữ bởi các ngân hàng nước
ngoài sớm muộn gì cũng sẽ đến lúc đáo hạn. Thêm vào đó, lãi suất cũng cần phải
được hoàn trả nửa năm một kỳ (công trái kỳ hạn 30 năm). Lúc này, Cục Dự trữ
Liên bang Mỹ sẽ phải tạo ra đồng đô-la mới một cách bất khả kháng.
Xét về bản
chất, chế độ dự trữ vàng cục bộ kết hợp với hệ thống tiền tệ vay mượn chính là
thủ phạm của nạn lạm phát tiền tệ dài hạn. Dưới chế độ bản vị vàng, kết quả tất
yếu là lượng phát hành chứng chỉ ngân hàng dần dần vượt quá lượng dự trữ vàng
và khiến cho bản vị vàng tất nhiên phải giải thể. Trong khuôn khổ Hiệp ước
Bretton Woods, khả năng sụp đổ của hệ thống hối đoái vàng là hoàn toàn có thể.
Còn ở chế độ tiền tệ pháp định thuần tuý, không thể tránh khỏi nạn lạm phát ác
tính, cuối cùng sẽ dẫn đến suy thoái nghiêm trọng trên phạm vi toàn thế giới.
Dưới sự chi
phối của nguồn tiền tệ vay mượn, nước Mỹ sẽ mãi mãi không thể hoàn trả hết nợ
quốc gia, nợ công ty và nợ tư nhân, bởi vì ngày nước Mỹ hoàn trả hết nợ cũng sẽ
chính là ngày đồng đô-la biến mất. Tổng nợ của Mỹ chẳng những sẽ không giảm xuống
mà còn sẽ giống như “hiệu ứng tuyết lăn”, tổng lượng nợ của Mỹ sẽ không ngừng
tăng lên theo nhu cầu tăng trưởng tự nhiên của nền kinh tế, đồng thời tốc độ
tăng nợ cũng diễn ra ngày một nhanh hơn.
3. Công nợ
của Mỹ và tờ “hoá đơn tạm“ của người dân châu Á
Vào thập
niên 80 của thế kỷ 20, Mỹ đã phát hành một số lượng lớn công trái với lãi suất
vô cùng cao.
Lượng công
trái này có sức hấp dẫn rất lớn đối với các nhà đầu tư tư nhân cũng như các tổ
chức phi tài chính. Các nhà ngân hàng trung ương nước ngoài cũng nhân cơ hội
này nhảy vào. Trong quá trình tái sử dụng, dòng đô-la hiện có này sẽ tạo ra một
số đồng tiền mới.
Đến thập
niên 90, do hạ gục được một số loại tiền tệ cạnh tranh chủ yếu trên thế giới
nên công trái Mỹ vẫn được coi là có giá. Giá nhập khẩu các loại hàng hoá thường
ngày hết sức rẻ mạt trong khi tiền tệ của các nước thuộc thế giới thứ ba đang
ngày càng trở nên mất giá. Nước Mỹ đã có những ngày tháng hoàng kim với mức
tăng trưởng cao và nạn lạm phát hầu như rất thấp.
Từ năm 2001
đến nay, do ngân sách cho cuộc chiến chống khủng bố tăng mạnh và các loại công
trái kỳ hạn được phát hành với số lượng lớn từ thập niên 80 liên tiếp đáo hạn
cũng như việc chi trả lãi suất ngày càng lớn nên Mỹ phải phát hành nhiều công trái
hơn nữa để thay thế cho lượng công trái cũ. Từ năm 1913 đến năm 2001, trong
vòng 87 năm, Mỹ đã phát hành lượng công trái trị giá khoảng 6.000 tỉ đô la.
Còn từ năm
2001 đến năm 2006, trong thời gian hơn 5 năm ngắn ngủi, Mỹ đã phát hành thêm một
lượng công trái trị giá gần 3.000 tỉ đô-la. Tổng lượng công trái của Mỹ đã lên
đến 8600 tỉ đô-la, tăng 2,55 tỉ USD mỗi ngày. Tiền chi trả lãi suất công trái của
chính phủ chiếm vị trí thứ ba trong ngân sách chi tiêu của chính phủ, chỉ xếp
sau chi phí y tế và quốc phòng, mỗi năm trả lãi gần 400 tỉ đô-la, chiếm 17% tổng
thu nhập tài chính của nước này.
Từ năm 1982
đến năm 1992, tốc độ phát hành tiền tệ của Mỹ bình quân tăng thêm 8%. Nhưng từ
năm 1992 đến năm 2002, tốc độ phát hành đã đạt mức 12%. Bắt đầu từ năm 2002, do
nhu cầu chi tiêu cho cuộc chiến chống khủng bố và kích thích nền kinh tế đang
ngấp nghé suy thoái, trong tình hình lãi suất sau chiến tranh gần như ở mức thấp
nhất, tốc độ phát hành thêm của đồng đô-la Mỹ đã đạt mức 15%.
Thực ra, nếu
nhìn vào biểu đồ gia tăng công trái của Mỹ thì tất cả những điều này đều là tất
yếu.
Trong lịch sử
loài người vẫn chưa có một quốc gia nào mà mức dự chi tương lai lại vượt giới hạn
cho phép một cách nghiêm trọng như vậy. Mỹ không những đã chi tiêu tài sản của
người dân nước mình mà còn chi tiêu cả tài sản tương lai của người dân các nước
khác. Bất cứ một người nào có hiểu biết về đầu tư cổ phiếu đều có thể nhận ra rằng,
đường cong của biểu đồ này cuối cùng sẽ dẫn đến tình trạng gì.
Kể từ sau sự
kiện 11 tháng 9 năm 2001, để cứu vãn thị trường cổ phiếu và thị trường công
trái, Alan Greenspan đã giảm lãi suất đồng đô-la từ 6% xuống còn 1%, bất chấp hậu
quả mà nó gây ra, khiến cho đồng đô-la Mỹ tràn ngập trên toàn thế giới. Và cuối
cùng thì mọi người cũng hiểu ra rằng, đồng đô-la Mỹ chẳng qua chỉ là tờ giấy có
in hoa văn màu xanh. Những người nắm giữ đồng đô-la Mỹ trên toàn thế giới hầu
như cùng dốc vốn vào các loại tài sản quý như bất động sản, dầu mỏ, vàng, bạc
hay hàng hoá chủ lực.
Một nhà đầu
tư người Pháp nói: “Người New York có thể phát hành tiền giấy đô-la, nhưng chỉ
có Chúa mới có thể phát hành được dầu mỏ và vàng”. Hậu quả là, giá dầu thô tăng
từ 22 đô-la Mỹ/thùng lên 60 đô-la Mỹ/thùng, giá vàng, bạc, bạch kim, niken, đồng,
kẽm, chì, đậu tương, đường, cà phê, ca cao đều tăng giá từ 120% đến 300% so với
giá của năm 2002. Nhưng các nhà kinh tế học vẫn phát biểu chắc nịch rằng, tỉ lệ
lạm phát tiền tệ chỉ dao động ở mức 1%-2%. Khi đề cập đến vấn đề này, có lẽ mọi
người sẽ nhớ đến câu nói của Mark Owen rằng: trên thế giới có ba kiểu nói dối:
những lời nói dối, những lời nói dối đáng chết và những con số thống kê.
Điều khiến
cho người ta bất an là tổng nợ của nước Mỹ đã lên đến 44.000 tỉ đô-la. Những
khoản nợ này bao gồm công trái liên bang, công trái của các bang và công trái
chính phủ các địa phương, nợ quốc tế và các khoản nợ tư nhân. Những khoản nợ
này nếu tính bình quân thì mỗi người dân Mỹ phải gánh chịu một khoản nợ gần 150
nghìn đô-la Mỹ, như vậy, một gia đình bốn người phải gánh một khoản nợ gần 600
nghìn đô-la Mỹ. Trong các khoản nợ tư nhân, điều khiến người ta chú ý nhất
chính là các khoản cho vay mua nhà và khoản nợ tín dụng với những con số khổng
lồ. Nếu như tính theo lãi suất cố định là 5% thì với 44.000 tỉ đô-la, mỗi năm
người dân cần phải chi trả một khoản lãi suất lên đến 2.200 tỉ đô-la, gần như
tương đương với tổng thu nhập tài chính cả năm của chính phủ liên bang Mỹ. Gần
70% trong toàn bộ các khoản nợ được tạo ra từ năm 1990 trở về sau.
Nước Mỹ hiện
tại đã không thể phát động cuộc chiến tranh lãi suất cao như đầu thập niên 80 để
bóc lột các nước thuộc thế giới thứ ba, vì nước Mỹ cũng là một con nợ thâm niên
và bất cứ chính sách lãi suất cao nào cũng đều đồng nghĩa với vấn đề tự sát
kinh tế.
Việc “tiền tệ
hoá“ các khoản vay mượn cộng thêm vấn đề dự trữ vàng cục bộ chính là những yếu
tố tạo ra bội chi tài sản tương lai của người dân Mỹ. Đến năm 2006, tổng số tiền
đóng thuế thu nhập cá nhân của 300 triệu người dân Mỹ chỉ lưu lại ở chính phủ
liên bang trong một khoảng thời gian ngắn rồi sau đó lập tức được chuyển toàn bộ
vào ngân hàng để chi trả lãi suất của đồng đô-la vay mượn. Chính phủ không được
phép sử dụng một đồng thuế nào của người dân. Ngân sách dành cho giáo dục ở địa
phương chủ yếu dựa vào nguồn thu thuế sản xuất tại địa phương đó. Việc xây dựng
và duy tu các con đường cao tốc trên toàn nước Mỹ được lấy từ nguồn thuế dầu
khí, còn chi phí chiến tranh đối ngoại thì lấy từ thuế doanh nghiệp do các công
ty Mỹ cống nạp.
Nói cách
khác, ba trăm triệu người dân Mỹ đã bị các nhà ngân hàng “thu thuế gián tiếp“ trong
suốt mấy chục năm và vẫn tiếp tục bị bóc lột hết năm này qua năm khác. Khoản
tích luỹ của người dân Mỹ lại bị các nhà ngân hàng róc thêm một lớp nữa thông
qua việc “thu thuế tồn tại” và lạm phát tiền tệ dài hạn.
Trước hết,
khoan hãy bàn về việc liệu con nợ ở Mỹ có khả năng hoàn trả hết các khoản nợ chồng
chất hay không.
Vấn đề là
chính phủ Mỹ không thể và cũng không nghĩ đến chuyện thanh toán hết công nợ.
Chính phủ Mỹ luôn tìm cách để phát hành thêm công trái mới nhằm ngấm ngầm thay
thế lượng công trái cũ và cái vòng tuần hoàn này cứ lặp đi lặp lại mãi mãi.
Ngân hàng Philadenphia thuộc Cục Dự trữ Liên bang Mỹ đã chỉ ra rằng, “Nhiều nhà
phân tích cho rằng, công trái là thứ tài sản hết sức hữu dụng, thậm chí còn được
coi là phúc âm của nền kinh tế. Họ cũng cho rằng, không cần giảm lượng công
trái xuống”.
Nếu như một
cá nhân có thể dựa vào những khoản nợ vay ngày càng nhiều để tạo ra một cuộc sống
xa xỉ mà chẳng cần phải hoàn trả nợ nần thì có lẽ chẳng còn việc nào dưới gầm
trời này lại tốt hơn thế. Điều này hiện đang được cổ vũ và phát huy ở Mỹ. Các
nhà kinh tế học cho rằng, không có sự khác biệt nào về bản chất giữa việc dùng
những khoản nợ gia tăng không ngừng để hưởng thụ “cuộc sống thiên đường” và việc
tổ chức in ấn nhiều tiền giấy hơn để có thể có được cuộc sống giàu sang vương
giả.
Các học giả
này còn chỉ trích các quốc gia châu Á trong việc tích luỹ quá nhiều tài sản khiến
cho nền kinh tế thế giới trở nên mất cân bằng. Luận điệu ngớ ngẩn này đủ để chứng
minh sự suy đồi về đạo đức của họ như thế nào.
Người dân
châu Á đã cóp nhặt, tích luỹ bao nhiêu năm để có một số tiền nhất định, nhưng lại
bị các nhà tài phiệt ngân hàng hút vào cuộc “thí nghiệm vĩ đại” có quy mô chưa
từng thấy trong lịch sử nhân loại.
Nhu cầu đối
với công trái Mỹ của các nền kinh tế châu Á “hướng đến xuất khẩu” cũng tương tự
như việc chịu cho kẻ khác hút máu vậy. Một khi không được hút máu, toàn thân
chúng ta sẽ cảm thấy khó chịu, bứt rứt. Nước Mỹ cũng vui vẻ dùng thứ công trái
“vĩnh viễn không hoàn trả” này để viết biên lai tạm thời cho người dân châu Á.
Summers, cựu
Bộ trưởng tài chính Mỹ đã chỉ ra rằng, nếu như bình quân mỗi tuần Trung Quốc ngừng
mua một lượng công trái trị giá mấy trăm triệu đô-la của Mỹ, thì nền kinh tế Mỹ
sẽ gay go to, nhưng kinh tế Trung Quốc cũng sẽ gặp không ít phiền phức khi
ngành xuất khẩu vào Mỹ giảm sút. Trên thực tế, đôi bên đã rơi vào trạng thái
“cân đối khủng bố tài chính”.
4. Thị trường
sản phẩm tài chính phái sinh
Nếu theo
cách tính lãi gộp thì mỗi năm có ít nhất 2.000 tỉ đô-la được tạo ra để chi trả
lãi suất và đi vào lưu thông. Chỉ cần một phần nhỏ trong khoản tiền lãi này
cũng đủ để tạo nên nạn lạm phát tiền tệ. Tuy nhiên, có một điều kỳ lạ là, chỉ số
tiêu dùng (CPI) của Mỹ lại hầu như không thể hiện rõ mức độ lạm phát. Vậy các
nhà ngân hàng quốc tế đã chơi trò ảo thuật gì?
Bí quyết là
cần phải có đầu ra cho lượng tiền tệ phát hành thêm. Đó chính là thị trường sản
phẩm tài chính phái sinh - một công cụ tài chính gây nên nạn lạm phát dị thường
trong mười mấy năm trở lại đây. Hai mươi năm trước, tổng giá trị danh nghĩa
(National Value) của các sản phẩm tài chính phái sinh trên toàn thế giới gần
như bằng không. Nhưng đến năm 2006, tổng quy mô của thị trường này đã đạt đến
370 nghìn tỉ đô-la Mỹ, tương đương gấp 8 lần tổng GDP của toàn thế giới. Tốc độ
và quy mô tăng trưởng của thị trường này vượt xa sức tưởng tượng của loài người.
Bản chất của
sản phẩm tài chính phái sinh là gì? Cũng giống như đồng đô-la Mỹ, sản phẩm tài
chính phái sinh cũng là một loại phiếu nơi! Hơn thế nữa, chúng là một gói nợ, một
tập hợp nợ, một container nợ, một kho nợ, núi nợ.
Những khoản
nợ này được xem là tổ hợp đầu tư bổ sung vốn cho quỹ đối xung và được công ty bảo
hiểm cùng quỹ hưu trí xem như vốn bỏ vào tài khoản. Những khoản nợ này được
giao dịch, được kéo dài thời hạn, kiềm chế, lôi kéo, chuyển động, bổ xung hoặc
rút ra. Đây là một bữa tiệc thịnh soạn của sự vay mượn và nói một cách hình ảnh
hơn - là bữa tiệc thịnh soạn cho một canh bạc. Đằng sau những công thức số học
phức tạp, chỉ có hai lựa chọn, mỗi một bản hợp đồng đều là một lần đánh bạc, mỗi
một lần đánh bạc đều phải có thắng thua.
Cho dù đã là
con bạc cỡ bự hàng mấy trăm nghìn tỉ đô-la Mỹ, nhưng khi đã bước vào chiếu bạc
thì cần phải có nhà cái. Vậy ai là nhà cái trong canh bạc kia? Đó chính là 5
ngân hàng lớn nhất của Mỹ. Họ là những con bạc VIP mà công việc của họ là “buôn
bán vị thế nhà cái”.
Trong báo
cáo về tình hình thị trường tài chính phái sinh của ngân hàng thương mại quý
hai năm 2006, Bộ tài chính Mỹ đã chỉ ra 5 ngân hàng lớn nhất của Mỹ là J.P.
Morgan Chase, tập đoàn ngân hàng Hoa Kỳ và ba ngân hàng nữa chiếm đến 97% tổng
sản phẩm tài chính phái sinh của 902 ngân hàng với 94% thu nhập. Trong các loại
sản phẩm tài chính phái sinh của các ngân hàng, loại sản phẩm lãi suất
(Interest Rate) chiếm đến 83% toàn bộ giao dịch buôn bán với giá trị danh nghĩa
là 98,7 nghìn tỉ đô-la Mỹ.
Trong số các
chủng loại sản phẩm lãi suất, Interest Rate Swap (loại sản phẩm mà theo đó,
trong một kỳ hạn nhất định, một bên sẽ hoán đổi một dòng lãi suất của mình lấy
dòng lãi suất của đối phương, giao dịch trong trường hợp này thường không chạm
đến tiền vốn - ND) chiếm ưu thế tuyệt đối. Công dụng chủ yếu của nó là lấy “giá
thành thấp hơn” để “mô phỏng” sự vận động của công trái có lãi suất cố định dài
hạn. Cơ quan sử dụng công cụ này nhiều nhất chính là hai doanh nghiệp lớn tại Mỹ
được chính phủ đỡ đầu (Government Sponsored Entity), Freddie Mac và Fannie Mae.
Hai công ty tài chính siêu cấp này dùng việc phát hành công trái ngắn hạn để hỗ
trợ vốn cho những khoản vay bất động sản lãi suất cố định 30 năm. Ngoài ra, các
công ty này còn dùng sản phẩm “Interest Rate” để đối xung với sự rủi ro của biến
đổi lãi suất tương lai.
Trong số các
sản phẩm phái sinh lãi suất từ 98,7 nghìn tỉ đô la Mỹ này, J.P. Morgan Chase độc
chiếm phần quan trọng nhất, chiếm đến 74 nghìn tỉ. Trong lĩnh vực tài chính, việc
tiến hành đầu tư với tỉ lệ vốn 10:1 được coi là hết sức “liều lĩnh”, còn tỉ lệ
100:1 thì đó là dạng đầu tư “điên khùng”.
Quỹ quản lý
vốn dài hạn (Long Term Capital Management) quỹ đối xung siêu cấp nổi tiếng
trong những năm 90 dưới sự chỉ đạo chính của hai vị tiến sĩ đoạt giải thưởng
Nobel trong lĩnh vực kinh tế học - đã xây dựng nên thiết bị phần cứng của hệ
máy tính tiên tiến nhất trên thế giới cho mô hình số học đối xung rủi ro phức tạp
nhất thời đó. Khi đầu tư với tỉ lệ cán cân này, nếu không để ý thì nhà đầu tư sẽ
thua sạch túi và thậm chí còn kéo cả hệ thống tài chính của thế giới sụp đổ
theo. Thứ mà ngân hàng J.P. Morgan Chase đang làm trên thực tế là buôn bán vị
thế “nhà cái” trên thị trường sản phẩm tài chính phái sinh.
Tuyệt đại đa
số nhà đầu tư muốn đề phòng khả năng lãi suất tăng cao đột biến trong tương
lai, trong khi J.P. Morgan Chase lại đảm bảo rằng trong tương lai, lãi suất sẽ
không tăng lên cho người đầu tư, và thứ mà nó bán chính là một loại bảo hiểm
như vậy.
Điều gì có
thể khiến cho J.P. Morgan Chase dám mạo hiểm đến như vậy trong việc dự đoán mức
độ biến đổi lãi suất thứ mà chỉ có Greenspan và Cục Dự trữ Liên bang Mỹ biết đến?
Đáp án hợp lý chỉ có một, bản thân J.P. Morgan Chase chính là một trong những cổ
đông lớn nhất của ngân hàng New York thuộc Cục Dự trữ Liên bang Mỹ, mà ngân
hàng này là một công ty tư doanh. J.P. Morgan Chase không chỉ biết được tin tức
về sự thay đổi lãi suất sớm hơn những người khác, mà còn là người xác lập các
chính sách thay đổi lãi suất, trong khi uỷ ban Cục Dự trữ Liên bang Mỹ tận
Washington chỉ là một cơ quan hành chính mà thôi. Sự thay đổi về chính sách lãi
suất hoàn toàn không giống như kiểu bỏ phiếu quyết định lâm thời tại những kỳ hội
nghị của Cục Dự trữ Liên bang Mỹ như người ta vẫn tưởng tượng. Đương nhiên, quá
trình bỏ phiếu là giống y như thật, nhưng người bỏ phiếu ngay từ đầu đã bị các
nhà tài phiệt ngân hàng quốc tế dàn xếp một cách chủ ý.
Cho nên, việc
mà J.P. Morgan Chase làm chính là mua đi bán lại nhằm kiếm lời. Điều này cũng
có nghĩa rằng, J.P. Morgan Chase là một công ty có thể khống chế lượng mưa nhân
tạo, còn thứ nó bán là bảo hiểm lũ lụt tràn lan. Đương nhiên là nó biết được
khi nào thì lũ lụt đến, thậm chí là lũ lụt sẽ nhấn chìm những nơi nào. Albert
Einstein đã từng nói rằng, Chúa không tung xúc xắc. J.P. Morgan Chase dám chơi
trò buôn bán vị thế “nhà cái“ trên thị trường sản phẩm tài chính phái sinh và họ
sẽ không tung xúc xắc như Chúa trong câu nói của Einstein.
Cùng với đà
tăng trưởng có tính chất bùng nổ của thị trường sản phẩm tài chính phái sinh, sự
giám sát của chính phủ đã trở nên lạc hậu. Phần lớn hợp đồng sản phẩm tài chính
phái sinh được tiến hành bên ngoài thị trường giao dịch chính quy, được gọi là
“giao dịch qua quầy”.'Trong chế độ kế toán, thật khó mà so sánh giao dịch sản
phẩm tài chính phái sinh với giao dịch thương mại thông thường, và đương nhiên,
việc so sánh giữa kế toán thuế vụ và hạch toán tư sản lại càng là điều khó mà
thực hiện. Do quy mô của nó rộng lớn, tỉ lệ cán cân tài chính chênh lệch nghiêm
trọng, rủi ro của đối thủ khó kiểm soát, chính phủ giám sát lơi lỏng, cho nên
những việc này đối với thị trường tài chính chẳng khác nào một quả bom hạt nhân
hẹn giờ, chỉ chờ lệnh là nổ tung.
Chỉ cần một
lượng lớn đồng đô-la Mỹ được phát hành thêm và chảy ngược từ nước ngoài về, chỉ
số lạm phát tiền tệ sẽ được khống chế chặt một cách kỳ tích. Tương tự, một khi
thị trường tài chính phái sinh sụp đổ, chúng ta sẽ nhận ra được cơn bão tài
chính và sự khủng hoảng kinh tế nghiêm trọng nhất từ khi xã hội loài người xuất
hiện đến nay.
5. Các
doanh nghiệp được nhà nước bảo trợ: Cục Dự trữ Liên bang Mỹ thứ hai
Rất nhiều cơ cấu tài chính dường như
không hiểu được tính chất rủi ro của các công trái ngắn hạn do các doanh nghiệp
được nhà nước bảo trợ (GSE) phát hành. Các nhà đầu tư trái phiếu hiểu rằng, việc
đầu tư của họ hoàn toàn có thể tính được rủi ro tận dụng của GSE. Nguyên nhân
là khi xảy ra khủng hoảng, họ nghĩ rằng mình có đủ thời gian dự kiến để có thể
hưởng lợi từ những công trái ngắn hạn này. Tuy nhiên, vấn đề nằm ở chỗ, khi khủng
hoảng tài chính xuất hiện, chi trong mấy giở đồng hồ hoặc tối đa là vài ngày,
những công trái ngắn hạn của GSE sẽ hoàn toàn mất đi tính thanh khoản. Cho dù
nhà đầu tư có thể chọn cách rút lui, nhưng khi mọi nhà đầu tư cùng tháo chạy
thì không ai có thể thoát được. Cũng giống như khi mọi người chen nhau đổi tiền
mặt ở ngân hàng, những công trái ngắn hạn này không thể chuyển thành tiền mặt một
cách nhanh chóng. Nói tóm lại, việc người ta tranh nhau bán tháo các công trái
của GSE sẽ không thể thành công.
William
Boal, Chủ tịch Ngân hàng Saint Louis, thuộc Cục Dự trữ Liên bang Mỹ, năm 2005
Doanh nghiệp
được Nhà nước bảo trợ ở đây chỉ hai công ty cho vay bất động sản lớn nhất là
Fannie Mae và Freddie Mac được chính phủ Mỹ trao quyền đặc biệt. Hai công ty
này phụ trách mảng xây dựng thị trường thứ cấp cho các khoản cho vay bất động sản
của Mỹ. Tổng giá trị công trái do hai công ty này phát hành được bảo đảm bằng bất
động sản lên đến 4 nghìn tỉ đô-la. Trên thực tế, phần lớn trong khoản cho vay bất
động sản 7 nghìn tỉ đô-la mà hệ thống ngân hàng Mỹ đã phát hành đều được bán
cho hai công ty này. Họ đã biến những khoản thế chấp bất động sản dài hạn này
thành công trái MBS, sau đó bán ra cho các cơ quan tài chính của Mỹ và các ngân
hàng trung ương châu Á tại thị trường phố Wall.
Giữa công
trái MBS mà họ đã phát hành và các khoản cho vay khế chấp bất động sản mua được
từ các ngân hàng có một độ chênh lệch và khoản này trở thành nguồn lợi nhuận của
hai công ty nói trên. Theo thống kê, Mỹ có 60% ngân hàng nắm giữ vốn công trái
của hai công ty này, vượt hơn 50% vốn ngân hàng với tư cách là công ty lên sàn,
Fannie Mae và Freddie Mac đều lấy việc theo đuổi lợi nhuận làm hướng phát triển.
Đối với họ,
việc trực tiếp nắm giữ khoản vay khế chấp bất động sản càng thêm có lợi cần
theo đuổi.
Trong tình
huống này, mức dao động lãi suất và hoàn trả nợ trước hạn khế chấp và rủi ro
tín dụng đều sẽ do họ tự đảm đương. Trong khi Cục Dự trữ Liên bang Mỹ bắt đầu
quá trình tăng lãi suất liên tục từ năm 2002, Fannie Mae và Freddie Mac lại bắt
đầu mua vào một lượng lớn và trực tiếp nắm giữ các khoản vay khế chấp bất động
sản với tổng giá trị đến cuối năm 2003 là 1.500 tỉ đô-la.
Với tư cách
là một tổ chức tài chính gánh chịu một khoản nợ lớn như vậy vốn cần phải cẩn thận
tránh rủi ro, Fannie Mae và Freddie Mac coi sách lược quan trọng nhất chính là
làm sao để cho nguồn vốn và kỳ hạn của các khoản vay ăn khớp với nhau, vì nếu
không thì khó mà khống chế được rủi ro của dao động lãi suất. Tiếp đến, cần phải
tránh dùng vốn ngắn hạn đảm bảo cho các khoản nợ dài hạn.
Phương pháp
truyền thống chính là phát hành công trái có thể thu hồi dài hạn (Callable
Bonds), khiến cho thời hạn của vốn và nợ trở nên tương đương nhau đồng thời ấn
định chênh lệch lãi suất. Như vậy, có thể hoàn toàn tránh được hai rủi ro lớn
là dao động lãi suất và hoàn trả trước thời hạn khế chấp.
Thế nhưng,
trên thực tế, hai công ty này lại chủ yếu sử dụng công trái cố định dài hạn và
công trái ngắn hạn để tiến hành huy động vốn. Quy mô của quá trình và hành vi
huy động vốn ngắn hạn cao đến mức các khoản công trái ngắn hạn trị giá 30 tỉ
này cần phải được lưu chuyển, đẩy các công ty này vào thế rủi co cao độ.
Để tránh rủi
ro của dao động lãi suất, các công ty này cần phải chọn sách lược đối xung phức
tạp, như sử dụng các khoản nợ chưa trả và “lãi suất vượt kỳ“ (Interest Rate
Swap) tạo ra một kiểu tổ hợp của “nợ ngắn hạn + dòng hiện kim lãi suất cố định
tương lai” nhằm mô phỏng hiệu quả của công trái dài hạn. Họ cũng cần kết hợp
hoán đổi giữa các quyền lựa chọn (Swaption) để đối xung với rủi ro hoàn trả trước
kỳ hạn khế chấp. Ngoài ra, họ còn sử đụng sách lược “đối xung động thái không
hoàn bị” (Imperfect Dynamic Hedging), “phòng thủ trọng điểm” đối với dao động
mãnh liệt của lãi suất khả năng ngắn hạn, còn đối với lãi suất dài hạn ổn định
thì sử dụng phương pháp “nới lỏng phòng bị”. Nói chung, với các phương pháp
này, Fannie Mae và Freddie Mac hoàn toàn giữ thế chủ động trên thị trường.
Vì muốn thu
được nhiều lợi nhuận hơn nữa, Fannie Mae và Freddie Mac còn mua vào một lượng lớn
công trái MBS do chính mình phát hành ra. Mới nghe thì điều này dường như không
hợp lý lắm, tại sao đơn vị phát hành ra công trái ngắn hạn lại đi mua công trái
dài hạn của chính mình?
Chuyện lạ có
cái lý của chuyện lạ. Fannie Mae và Preddie Mac là đơn vị kinh doanh lũng đoạn
của thị trường cho vay bất động sản thứ cấp được chính phủ Mỹ trao quyền và
gián tiếp bảo đảm cho hai công ty này. Gọi là gián tiếp vì chính phủ Mỹ cung cấp
một hạn ngạch tín dụng với số lượng nhất định đối với hai công ty này để có thể
dùng đến trong tình huống khẩn cấp. Ngoài ra, Cục Dự trữ Liên bang có thể tính
toán khấu hao đối với công trái của Fannie Mae và Freddie Mac, hay nói cách
khác ngân hàng trung ương có thể trực tiếp tiến hành tiền tệ hoá công trái của
họ. Gần nửa thế kỷ nay, trừ công trái của Mỹ, vẫn không có công trái của bất cứ
công ty nào có vinh dự đặc biệt này. Do thị trường nắm rõ rằng, công trái do
Fannie Mae và Freddie Mac phát hành có giá trị tương đương như đồng đô-la nên độ
tin cậy của chúng chỉ đứng sau công trái quốc gia Mỹ. Bởi vậy mà mức lãi suất của
công trái ngẩn hạn do họ phát hành ra chỉ cao hơn so với công trái quốc gia, và
chính vì có được nguồn vốn như vậy mà các công ty này chẳng dại gì mà không mua
lại công trái dài hạn của mình để kiếm lời.
Có thể nói rằng,
xét ở mức độ nhất định, công trái của hai công ty này đang phát huy vai trò của
công trái Bộ tài chính Mỹ. Trên thực tế, hai công ty này đã trở thành “Cục Dự
trữ Liên bang Mỹ thứ hai”, tạo nên tính thanh khoản lớn cho hệ thống ngân hàng
của Mỹ, đặc biệt là những khi chính phủ không tiện ra mặt. Đây chính là nguyên
nhân tại sao sau khi Cục Dự trữ Liên bang Mỹ đã tiến hành tăng lãi suất liên tục
17 lần như vậy mà tính thanh khoản trên thị trường tài chính tính vẫn rất cao.
Hành vi kiếm
lời của chính phủ từ việc dùng công trái ngắn hạn GSE mua công trái MBS dài hạn
cùng với sự huy động vốn với giá thành cực thấp của các nhà ngân hàng quốc tế
trên thị trường đồng yên Nhật, rồi đến hành vi dùng cán cân bội số lớn mua quyền
kỳ hạn của công trái Mỹ đã tạo nên tình trạng nóng bỏng dị thường cho các loại
công trái dài hạn (công trái quốc gia và công trái MBS kỳ hạn 30 năm).
Vậy là sau một
hồi do dự, các nhà đầu tư nước ngoài sẽ quay lại với thị trường công trái dài hạn
của Mỹ.
Và như vậy,
dự trữ của các nước khác có thể tiếp tục giúp sức cho “cuộc thử nghiệm động cơ
vĩnh cửu của nền kinh tế” nước Mỹ. Trên bữa đại tiệc thịnh soạn của dục vọng,
người ta tiếp tục hoan lạc điên cuồng.
Chỉ có điều,
ảo giác cuối cùng cũng vẫn chỉ là ảo giác. Trong khi các doanh nghiệp được nhà
nước bảo trợ tiếp tục chuốc rượu trong màn hoan lạc điên cuồng thì nguồn vốn tự
có của họ đã hạ xuống dưới mức 3,5% - một mức độ hết sức rủi ro. Phải gánh vác
những khoản nợ hàng mấy nghìn tỉ đô-la với mức lãi suất luôn biến động trong
khi lượng vốn lại thấp như vậy, các công ty được nhà nước bảo trợ đã khiến cho
Greenspan mất ăn mất ngủ. Do gần như phụ thuộc vào công cụ tài chính phái sinh,
rốt cuộc sách lược đối xung của các doanh nghiệp được nhà nước bảo trợ có thể đối
đầu được với sự kiện bột phát bất ngờ hay không?
William Boal
- Chủ tịch Ngân hàng Saint Louis thuộc Cục Dự trữ Liên bang Mỹ - rất lo lắng về
khả năng phải đương đầu với mức lãi suất kinh hoàng của các doanh nghiệp được
nhà nước bảo trợ. Sau khi phân tích tình hình của biên độ dao động lãi suất mỗi
ngày của công trái quốc gia Mỹ trong 25 năm qua, ông ta đã rút ra kết luật rằng:
Giả sử một
năm có 250 ngày giao dịch, xác suất xảy ra dao động lãi suất cường độ loại này
là một năm hai lần, mà không phải là tám năm một lần như người ta tính toán. Mô
hình phân bố trạng thái đã phán
đoán sai
hoàn toàn mức độ rủi ro dao động của lãi suất. Dao động cường độ siêu lớn vượt
quá sai lệch tiêu chuẩn 4,5 hoặc lớn hơn đã xảy ra mười một lần trong 6.573
ngày giao dịch, loại dao động cấp đặc biệt này sẽ đủ để đánh sụp một công ty phụ
thuộc vào cán cân cân bằng tài chính. Còn một điểm quan trọng nữa là dao động
siêu cấp này có khuynh hướng bùng nổ tập trung, có nghĩa là trong một khoảng thời
gian ngắn, một công ty sẽ bị chấn động mạnh nhiều lần. Đối xung không hoàn bị
trong tình huống lãi suất dao động dữ dội sẽ dẫn đến sự thất bại triệt để của
công ty này. Chú thích: trong hình đường nhạt màu biểu thị phạm vi sai lệch 3,5
so với tiêu chuẩn Đường dao động lãi suất hằng ngày công trái kỳ hạn 10 năm của
Mỹ trong 25 năm nay (ngày 1 tháng 5 năm 1987 đến ngày 1 tháng 5 năm 2004).
Nếu xảy ra
các sự kiện bột phát, ví dụ như sát thủ tài chính đột ngột công kích đồng
đô-la, các phần tử khủng bố tấn công nước Mỹ bằng chiến tranh hạt nhân hoặc chiến
tranh sinh học, hoặc nếu như giá vàng tiếp tục tăng cao, thị trường công trái Mỹ
ắt sẽ chấn động dữ dội. Một khi các doanh nghiệp được nhà nước bảo trợ gặp vấn
đề thì lượng công trái trị giá mấy trăm nghìn tỉ đô-la có thể mất đi tính thanh
khoản chỉ sau vài tiếng đồng hồ, thậm chí lúc này, Cục Dự trữ Liên bang Mỹ cũng
không thể ra tay cứu vớt, mà với sự sụp đổ quy mô như vậy thì Cục Dự trữ Liên
bang Mỹ cũng đành bó tay vì lực bất tòng tâm. Cuối cùng, 60% ngân hàng Mỹ có thể
phải đương đầu với một cuộc khủng hoảng, thị trường sản phẩm tài chính phái
sinh trị giá 370 nghìn tỉ đô-la sẽ rơi vào tình trạng hỗn loạn với hiệu ứng tuyết
lở.
Rủi ro lớn
nhất của thị trường sản phẩm tài chính phái sinh được phản ánh đầy đủ thông qua
các doanh nghiệp được nhà nước bảo trợ, trong khi chính các doanh nghiệp này chẳng
qua chỉ là một góc núi băng.
Trong cuốn
“Tham vọng xa xỉ của sự vay mượn”, Robert Kiyosaki - tác giả cuốn sách nổi tiếng
“Dạy con làm giàu” (Rich Dad, Poor Dad) - đã miêu tả về sự “phồn vinh kinh tế
vay nợ” của thế giới ngày nay:
Kinh nghiệm
của tôi cho biết, trong tương lai nhất định sẽ có kẻ phải hoàn trả những khoản
nợ này. Sự sụp đổ của đế quốc Tây Ban Nha gắn liền với lòng tham lam vô đáy của
họ đối với chiến tranh. Tôi e rằng, lòng tham vô đáy của con người sẽ kéo nhân
loại đi theo vết xe đổ. Vậy kiến nghị của tôi là gì? Đối với hiện tại, hãy hoan
lạc điên cuồng tại bữa yến tiệc của lòng tham di, nhưng đừng uống quá nhiều, và
phải đứng ở gần lối ra.
Trong một sới
bạc náo nhiệt, các con bạc đang dồn hết tâm trí để đặt cược vào đồng đô-la Mỹ vốn
bị Robert Toru Kiyosaki gọi là “tiền tệ tếu”. Lúc này, những kẻ còn tỉnh táo đầu
óc đã nhận ra rằng, góc khuất của chiếu bạc đang bắt đầu bốc khói. Họ cố hết sức
bình sinh để thoát ra khỏi chiếu bạc theo hướng cửa hẹp. Lúc này, các con bạc
đã có thể nhìn thấy ngọn lửa lờ mờ. Tuy nhiên, họ vẫn hoàn toàn chưa hay biết.
Chỉ có một số người đã ngửi thấy mùi khói. Họ nhớn nhác tứ phía và bắt đầu rì rầm
bàn tán. Sợ mọi người phát hiện thấy ngọn lửa, ông chủ sới bạc bèn bày rượu chè
kích thích, và phần lớn con bạc lại bị hút trở lại bên chiếu bạc.
Mồi lửa cuối
cùng cũng bén thành ngọn lửa, người người hoảng sợ và tháo chạy nhưng không biết
phải làm sao. Để trấn an sới bạc, chủ sới cho rằng, việc có lửa có khói là chuyện
bình thường và chuyện kiểm soát ngọn lửa là điều hoàn toàn làm được. Tử năm
1971 đến nay, mọi việc đều diễn ra như thế. Những điều này đã làm yên lòng mọi
người, vậy là người ta lại tiếp tục đánh bạc. Chỉ có điều, số người đứng ở cửa
ra vào ngày càng đông hơn. Lúc này, điều đáng sợ nhất chính là khi có tiếng
thét chói tai báo hiệu đám cháy đang lan đến và mỗi người đều sẽ phải tìm đường
thoát cho mình. Đối với Robert Toru Kiyosaki, cửa thoát hiểm của sới bạc chính
là vàng và bạc. Trong tác phẩm “Đánh vàng, đừng đánh bạc tếu”, ông đã chỉ ra:
Tôi cảm thấy
vàng là tài sản rất tiện dụng. Trong điều kiện giá dầu mỏ tăng lên và các nước
như Liên bang Nga, Venezuela, A-rập và châu Phi không muốn tiếp nhận đồng đô-la
của chúng ta, vàng sẽ còn tăng giá mạnh. Trước mắt, chúng ta có thể dùng “tiền
tếu” của mình để chi trả cho hàng hoá và dịch vụ của quốc gia khác, nhưng thế
giới đã dần dần mất hứng với đồng đô-la rồi. Chiến lược của tôi trong nhiều năm
trở lại đây là: đầu tư tiền thật, chúng chính là vàng và bạc. Tôi cũng tiếp tục
vay “tiền tếu” để mua bất động sản. Mỗi khi giá vàng tăng cao, thì hiện vật mà
tôi mua vào càng nhiều. Có nhà đầu tư thông minh nào sẽ không muốn vay “tiền tếu”
để mua tiền thật với giá rẻ chứ?
6. Vàng -
một loại tiền tệ bị giam lỏng
Bản thân vàng mang trong mình rất
nhiều yếu tố bất ổn. Việc chính phủ của một số quốc gia lớn vẫn luôn tìm cách
lung lạc giá vàng chính là một trong những yếu tố ấy. Nếu như quan tâm đến
chinh sách của chính phủ đối với vàng trong suốt 20 năm qua, bạn sẽ nhận ra
ràng, khi giá vàng cao đến mức 800 đô-la/ounce (năm 1980), chẳng có chính phủ
nào bán vàng ra. Việc bán vàng ra khi đó có thể nói là rất hợp thời, lại còn có
thể ổn định giá vàng. Nhưng chính phủ lại bán vàng ra khi giá vàng xuống thấp
nhất (năm 1999). Chính phủ Anh đã làm như vậy và đó chính là một trong những yếu
tố khiến cho giá vàng trở nên bất ổn.
Robert A.
Mundell, năm 1999
Yếu tố làm bất
ổn giá vàng mà Robert A. Mundell nói đến năm 1999 chính là một bộ phận quan trọng
của màn kịch tài chính tinh vi do các nhà tài phiệt ngân hàng quốc tế dàn dựng
kể từ năm 1980. Nhưng việc thao túng giá vàng lại là một kế hoạch tài tình được
dàn xếp nghiêm ngặt với thủ pháp cao siêu khiến người ta khó phát hiện ra. Việc
khống chế thành công giá vàng trong khoảng thời gian hơn 20 năm vẫn là chuyện
thật khó tin trong lịch sử nhân loại.
Điều khó hiểu
nhất chính là tuyên bố của ngân hàng Anh quốc vào ngày 7 tháng 5 năm 1999. Ngân
hàng này đột ngột thông báo sẽ bán đứt một nữa số vàng dự trữ (chừng 415 tấn).
Đây là lần ngân hàng Anh bán tháo vàng với quy mô lớn nhất kể từ khi cuộc chiến
tranh giữa đế quốc Anh và Napoleon nổ ra.
Thông tin động
trời này đã khiến cho giá vàng quốc tế đã rớt xuống ngưỡng 280 đô-la/ounce.
Mọi người
không khỏi hoài nghi: rốt cuộc thì ngân hàng Anh muốn gì? Đầu tư ư? Không đúng,
bởi nếu đầu tư thì họ phải bán ra với giá 800 đô-la/ounce từ năm 1980 rồi thu
gom công trái Mỹ kỳ hạn 30 năm với mức lãi suất lên đến 13% vào thời đó để kiếm
lãi. Nhưng ngân hàng Anh lại phá bĩnh khi bán tháo vàng ra với giá thấp nhất
trong lịch sử là 280 đô-la/ounce vào năm 1999, rồi đi đầu tư công trái Mỹ với
lãi suất khi đó chưa đến 5%. Việc Mundell không thể hiểu được nguyên nhân vì
sao cũng không phải là chuyện lạ.
Phải chăng
ngân hàng quốc tế không biết gì về làm ăn? Đương nhiên là không phải. Trong suốt
gần 300 năm kể từ khi thành lập vào năm 1694, Ngân hàng Anh đã xưng hùng xưng
bá trên thị trường tài chính, đã trải qua mọi biến cố thăng trầm, thậm chí, đối
với họ, Cục Dự trữ Liên bang Mỹ chỉ đáng là một cậu học trò nhỏ. Vì thế, nếu
nói trắng ngân hàng Anh ngờ nghệch trong kinh doanh thì thật là nực cười.
Vậy tại sao
Ngân hàng Anh lại hành xử một cách ngược đời như vậy? Chỉ có một lí do duy nhất:
nỗi lo sợ.
Họ không sợ
giá vàng tiếp tục giảm xuống khiến cho nguồn dự trữ vàng mất hiệu lực mà lại sợ
giá vàng tiếp tục tăng giá? Bởi trong sổ sách giấy tờ của ngân hàng thì vàng đã
không cánh mà bay. Số vàng cần phải thu vào để ghi chép trong sổ sách kia có thể
mãi mãi không thu hồi lại được.
Ferdinand
Lips - một nhà tài phiệt ngân hàng Thuỵ Sĩ - đã từng nói rằng, nếu như người
dân Anh biết được ngân hàng trung ương của họ xử trí một cách điên khùng và
khinh suất như thế nào đối với nguồn tài sản chân chính (vàng) mà họ cố công
tích luỹ trong suốt mấy trăm năm thì dưới đoạn đầu đài sẽ có khối hộp sọ nằm lổn
nhổn. Nói một cách chính xác hơn, nếu người dân thế giới biết được các ngân
hàng trung ương đã thao túng giá vàng như thế nào thì tội lỗi lớn nhất trong lịch
sử loài người sẽ được phơi bày ra ánh sáng.
Vậy thì số
vàng của ngân hàng Anh đã bốc hơi đi đâu? Hoá ra, số vàng này đã bị các nhà
ngân hàng Anh mang đi cho các đồng nghiệp buôn vàng nén (Bullion Bankers) thuê
mướn mất rồi.
Ngọn ngành của
sự việc là thế này: đầu những năm 90, trục London - phố Wall hạ gục nền kinh tế
Nhật, khống chế được tiến trình thống nhất tiền tệ châu Âu. Tuy tỏ ra hớn hở đắc
chí nhưng các đại gia ngân hàng vẫn không thể nào lơ là mất cảnh giác với vàng.
Nên nhớ rằng, đối với giới tài chính của trục London - phố Wall thì đồng tiền
châu Âu và đồng yên Nhật chỉ là một cái mụn nhỏ mà thôi, trong khi vàng mới là
khối u ác tính. Nếu một khi vàng trở nên có giá thì mọi hệ thống tiền tệ pháp định
sẽ phải thần phục nó. Tuy không còn được coi là tiền tệ của thế giới, nhưng trước
sau vàng vẫn là trở ngại lớn nhất đối với các nhà ngân hàng trong việc tước đoạt
tài sản của người dân thế giới thông qua nạn lạm phát tiền tệ. Tuy bị “giam lỏng”
nhưng vàng vẫn được coi là một thứ tài sản quý với sức hấp dẫn mãnh liệt. Chỉ cần
có chút biến động trong xã hội là người ta lập tức đổ xô đi mua vàng. Nếu muốn
loại bỏ vàng thì các nhà ngân hàng quốc tế phải tìm cách “giam lỏng” vàng vĩnh
viễn.
Nếu muốn thực
hiện việc này, các nhà ngân hàng cần phải làm sao để cả thế giới thấy được rằng
vàng là một thứ tài sản vô dụng và không có khả năng bảo vệ tiền bạc của người
dân và cũng không thể trở thành một chỉ tiêu ổn định, thậm chí không có sức thu
hút sự quan tâm của các nhà đầu cơ. Vì vậy giá trị của vàng cần phải được khống
chế nghiêm ngặt.
Năm 1968,
rút kinh nghiệm xương máu từ thảm bại của “Quỹ hỗ trợ vàng”, các nhà ngân hàng
quốc tế quyết không dùng vàng thực để làm thứ đối chọi với nhu cầu thị trường
khổng lồ. Năm 1980, sau khi nâng mức lãi suất lên đến 20% và tạm thời khống chế
được giá vàng đồng thời khôi phục được lòng tin của dân chúng vào đồng đô-la,
các nhà ngân hàng bắt đầu sử dụng một loại vũ khí mới là công cụ tài chính phái
sinh.
Binh pháp có
câu “công tâm vi thượng, công thành vi hạ” (đánh vào lòng người mới là thượng
sách, còn đánh thành chỉ là hạ sách mà thôi). Các nhà tài phiệt ngân hàng quốc
tế khá hiểu rõ chân lý này. Vàng cũng tốt, đô-la Mỹ cũng xong, mà cổ phiếu,
công trái, bất động sản cũng đều chấp nhận được. Nhưng dù có dính dáng đến bất
cứ thứ nào trong đó thì cũng có nghĩa là ta đang đùa giỡn với niềm tin! Mà sản
phẩm tài chính phái sinh chính là vũ khí niềm tin siêu cấp. Năm 1987, sau khi
thử nghiệm thành công vụ nổ “bom hạt nhân tài chính phái sinh” trong cơn đại hoạ
của thị trường chứng khoán, loại vũ khí này đã được đem ra sử dụng. Năm 1990,
thứ vũ khí hiệu năng này lại được sử dụng một lần nữa trên thị trường chứng
khoán Tokyo mà mức độ sức sát thương của nó khiến cho các nhà ngân hàng quốc tế
hân hoan ra mặt. Tuy nhiên, cách thức này chỉ có hiệu quả trong một khoảng thời
gian ngắn. Vì vàng được coi là mối đe doạ lớn đối với các nhà ngân hàng, để tạo
ra sự đe doạ mang tính lâu dài đối với vàng, người ta cần phải sử dụng nhiều loại
vũ khí đánh vào lòng tin của dân chúng.
Việc ngân
hàng trung ương tư hữu khống chế để đem lượng vàng dự trữ quốc gia cho thuê là
một trong những loại vũ khí hữu hiệu. Đầu những năm 90 của thế kỷ 20, các nhà
tài phiệt ngân hàng quốc tế bắt đầu tung ra một chiêu thức mới: cho các nhà
ngân hàng thuê lại nguồn vàng đang lưu giữ trong kho của ngân hàng trung ương với
lãi suất cho dù chỉ 1% bởi nếu không làm vậy thì lượng vàng đó cứ “ngủ yên”
trong kho mà chẳng hề sinh lợi, lại còn tốn công lau bụi bám vào, tốn chi phi bảo
quản. Quả nhiên, cách thức này đã nhanh chóng trở thành phong trào rầm rộ ở
châu Âu.
Vậy thì các
khách hàng thuê lại vàng của họ là những ai? Đó chính là các đại gia ngân hàng
như công ty J.P. Morgan chẳng hạn. Dựa vào uy tín “tốt lành” của mình, họ “vay”
vàng từ tay các ngân hàng trung ương với lãi suất siêu rẻ 1%, rồi bán ra trên
thị trường vàng, nhận một khoản hoa hồng rồi sau đó mua công trái Mỹ với lãi suất
5%. Như vậy, họ ăn chắc khoản lãi suất chênh lệch 4% và thủ đoạn này được gọi
là “Giao dịch vàng hưởng lãi suất chênh lệch (Gold Carry Trade). Cứ như vậy, việc
ngân hàng trung ương bán vàng rẻ mạt đã tạo ra sự ép buộc với giá vàng và giúp
các nhà ngân hàng hưởng một khoản chênh lệch béo bở đồng thời còn kích thích được
nhu cầu của dân chúng đối với công trái Mỹ. Như vậy, một mũi tên của các nhà
ngân hàng đã trúng tới mấy đích.
Tuy nhiên,
việc làm này vẫn hàm chứa một nguy cơ rủi ro. Phần lớn số vàng mà các nhà ngân
hàng vay được từ ngân hàng trung ương là hợp đồng ngắn hạn, thường có hiệu lực
trong khoảng 6 tháng, nhưng đối tượng đầu tư rất có thể là công trái dài hạn,
và khi đến kỳ hạn, các ngân hàng trung ương đơn phương yêu cầu khách hàng hoàn
trả lại số vàng đã vay. Lúc này, nếu giá vàng liên tục tăng cao thì tình cảnh của
các nhà ngân hàng đi vay sẽ cực kỳ nguy hiểm.
Để phòng ngừa
rủi ro này, các thiên tài phố Wall đã tập trung chú ý vào ngành sản xuất vàng.
Họ không ngừng nhồi nhét vào đầu các nhà sản xuất vàng tư tưởng mang tính “tất
yếu lịch sử” rằng, về lâu dài, giá vàng khai thác được sẽ giảm xuống, chỉ bằng
cách chốt giá bán trong tương lai ngay thời điểm hiện tại thì họ mới có thể
tránh được rủi ro. Ngoài ra, các nhà ngân hàng quốc tế còn có thể cung cấp một
khoản vay lãi suất thấp khoảng 4% và cung cấp kinh phí cho ngành sản xuất vàng
(khảo sát và khai phá). Mức lãi suất này khiến người ta khó có thể từ chối, hơn
nữa, khi thấy giá vàng quốc tế biến đổi hàng năm, thay vì đợi đến sau này bán
vàng hạ giá thì thà ngay bây giờ đem vàng còn nằm trong lòng đất bán ra với một
giá tốt vẫn hơn. Điều này gọi là “hợp đồng viễn kỳ vàng” (bán vàng trước khi
khai thác, Gold Forward Sale) Vậy là các nhà tài phiệt ngân hàng đã có trong
tay một sản lượng vàng của tương lai và dùng chính số vàng này làm thế chấp cho
việc hoàn trả nợ vay vàng của ngân hàng Trung ương. Hơn nữa, vì ngân hàng Trung
ương và các nhà ngân hàng vay vàng vốn dĩ là người trong một nhà, cho nên “hợp
đồng cho thuê“ gần như có thể kéo dài vô thời hạn (Loan Roll Over). Như vậy,
các nhà tài phiệt ngân hàng vay vàng đã được bảo hiểm kép.
Sau một thời
gian ngắn thực hiện ý tưởng này, các thiên tài phố Wall lại bắt đầu tung ra thị
trường một loạt sản phẩm tài chính phái sinh mới như Hợp đồng giao hàng chậm
(Spot Defered Sales), hợp đồng viễn kỳ điều kiện (Contingent Forward), hợp đồng
viễn kỳ biến lượng (Variable Volume Forward), Đối xung Delta (Delta Hedging),
và các loài hợp đồng quyền kỳ hạn khác.
Dưới sự trợ
giúp của các ngân hàng đầu tư, ngành công nghiệp sản xuất vàng bắt đầu tham gia
tích cực vào các hoạt động đầu cơ tài chính chưa từng thấy trước đó. Ngành sản
xuất vàng của các nước bắt đầu ồ ạt đem lượng vàng dự trữ dưới lòng đất quy
tính thành sản lượng hiện hữu để tiến hành “bán trước”.
Ngành sản xuất
vàng của Úc thậm chí còn đem sản lượng vàng trong 7 năm tới bán ra ngoài. Tổng
số hợp đồng sản phẩm tài chính phái sinh mà Ashanti - công ty sản xuất vàng
quan trọng của Ghana, Tây Phi - đã mua dưới sự “tham mưu” của Goldman Sachs và
16 nhà ngân hàng đã lên đến 2500 bản, đến tháng 6 năm 1999, tài sản thể hiện
trên sổ sách của công ty này đã đại mức 290 triệu đô-la Mỹ. Các nhà bình luận
chỉ ra rằng, các công ty sản xuất vàng đang dùng kim loại quý này để đầu cơ mạo
hiểm.
Trong trào
lưu “cách mạng đối xung” đang dâng lên trong ngành sản xuất vàng, công ty vàng
Barrick có thể được xem là một ví dụ điển hình về quy mô hoạt động. Quy mô đối
xung của Barrisk đã vượt qua phạm trù hợp lý của việc khống chế rủi ro, vì thế
cũng chẳng có gì sai nếu nói sách lược của công ty này là một canh bạc lớn về
tài chính. Trong hành động mua khống vàng một chiều với số lượng lớn, Barrick
đã tạo ra sự ép giá mang tính cạnh tranh giữa các đơn vị cùng ngành, và kết quả
tất yếu là thị trường không còn cơ hội để tồn tại. Trong báo cáo thường niên của
mình, Barrick đã thổi phồng sách lượng đối xung phức tạp nhằm khiến cho họ có
thể bán vàng ra với giá cao hơn thị trường.
Thực ra, một
phần trong số vàng mà Barrick bán được trên thị trường là vàng “vay” với lãi suất
thấp từ các ngân hàng trung ương. Khoản thu nhập có được từ việc bán tháo lượng
vàng “vay” này trên thị trường được dùng để mua công trái Mỹ. Khoản chênh lệch
lãi suất từ việc mua bán này chính là kết quả diệu kỳ được sinh ra từ cái gọi
là “công cụ đối xung phức tạp“ - một trò bịp bợm tài chính điển hình.
Tuy nhiên,
giá vàng không ngừng tuột dốc, và điều này phù hợp với lợi ích của các bên tham
gia. Khi giá vàng tuột dốc, do đã chốt giá bán ra, các đơn vị sản xuất vàng đã
biến báo giá vàng trên giấy tờ sổ sách và khẳng định rằng vàng sẽ còn tăng giá.
Vậy là, ngành sản xuất vàng trở thành kẻ đồng loã trong việc làm cho giá vàng sụt
giảm một cách kỳ quái. Thực ra, thứ mà ngành sản xuất vàng có được chỉ là thứ lợi
lộc nhất thời, còn cái mất đi lại là lợi ích lâu dài.
Rush More -
Chủ tịch uỷ ban hành động chống lũng đoạn vàng (Gold Anti-trust Action
Committee) đã gọi Barrick là “Gold Cartel”. Thành viên chính của tập đoàn này
bao gồm: công ty J.P. Morgan, ngân hàng Anh, Deutsche Bank, ngân hàng Hoa Kỳ,
Công ty Goldman Sachs, ngân hàng thanh toán quốc tế (BIS), Bộ tài chính Mỹ và Cục
Dự trữ Liên bang Mỹ.
Trong khi giá
vàng được đẩy lên cao không ngừng do nhu cầu thị trường tăng mạnh thì ngân hàng
trung ương lại đột kích vào tuyến thứ nhất bằng việc công khai bán tháo một lượng
lớn vàng, mãi cho đến khi các nhà đầu tư cảm thấy khiếp sợ mới thôi.
Trong phiên
điều trần tại uỷ ban ngân hàng hạ nghị viện tháng 7 năm 1998, Greenspan đã lên
tiếng nói rằng: “Vàng là một loại hàng hoá có rất nhiều sản phẩm tài chính phái
sinh được tiến hành giao dịch ngoài thị trường. Nhà đầu tư không thể khống chế
lượng cung ứng vàng, nếu như giá vàng tăng thì các ngân hàng trung ương sẽ “cho
thuê“ vàng dự trữ bất cứ lúc nào”. Hay nói cách khác, Greenspan đã công khai thừa
nhận, nếu cần thiết, giá vàng hoàn toàn nằm dưới sự khống chế của các nhà ngân
hàng trung ương.
Tháng 3 năm
1999, chiến tranh Kosovo bùng phát, tình hình đã có sự thay đổi. Cuộc tập kích
của khối NATO chưa thể đạt hiệu quả sớm như mong muốn của các nhà hoạch định
chiến lược, trong khi đó, giá vàng không ngừng leo thang. Một khi giá vàng liên
tục tăng và bị mất kiểm soát thì các nhà ngân hàng tất yếu phải gom vàng với
giá cao trên thị trường để hoàn trả lại cho các ngân hàng trung ương. Nếu trên
thị trường không có nhiều hàng hoá hoặc ngành sản xuất vàng lấy sản lượng vàng
chưa khai thác dưới lòng đất làm thế chấp lâm vào cảnh phá sản, hoặc trữ lượng
vàng dưới đất không đủ, thì không chỉ nhà ngân hàng quốc tế phải gánh chịu tổn
thất nặng nề mà khoản dự trữ vàng của các nhà ngân hàng trung ương cũng sẽ thiếu
hụt trầm trọng. Nếu như sự việc bại lộ thì ắt sẽ có kẻ phải bước lên đoạn dầu
đài. Trong tình huống khẩn cấp như vậy, ngày 7 tháng 5 năm 1999, ngân hàng Anh
đã phải ra tay.
Trong tình cảnh
này, tháng 9 năm 1999, các nhà tài phiệt ngân hàng trung ương châu Âu đã ký
“thoả thuận Washington” nhằm hạn chế tổng lượng vàng bán ra hoặc cho thuê trong
vòng năm năm tới của các nước. Tin tức truyền đi, lãi suất vàng “cho thuê” đã
nhảy vọt từ 1% lên đến 9% trong vòng mấy tiếng đồng hồ, khiến cho các nhà sản
xuất làm khống vàng và sản phẩm tài chính phái sinh của các nhà đầu cơ đều bị tổn
thất thảm hại.
Thị trường
vàng sôi động trong gần 20 năm cuối cùng cũng đã chấm dứt thời hoàng kim của
mình và mở ra một tương lai ảm đạm cho thị trường hàng hoá.
Năm 1999
đánh dấu một bước ngoặc chiến lược quan trọng trên chiến trường vàng. Thời điểm
này được ví như cuộc chiến tranh bảo vệ Volgagrad trong thế chiến thứ hai vậy Kể
từ đây, các nhà ngân hàng vẫn chưa thể giành được thế chủ động trên chiến trường
vàng. Hệ thống tiền tệ pháp định lấy đồng đô-la Mỹ làm biểu tượng đã phải lùi
bước trước sự tấn công mạnh mẽ của vàng.
Ngoài việc
khống chế giá vàng, các nhà ngân hàng quốc tế còn đặt nền móng cho cuộc chiến
trường thứ hai - cuộc chiến dư luận và cuộc chiến học thuật. Thành công lớn nhất
của các nhà ngân hàng quốc tế chính là việc “tẩy não” một cách hệ thống đối với
giới kinh tế học, dẫn dắt giới học thuật bước vào trò lường gạt dân thường.
Trong khi phần lớn các nhà kinh tế học hiện đại đặt ra câu hỏi đầy nghi vấn về
công dụng của vàng thì các nhà tài phiệt ngân hàng quốc tế lại cảm thấy hí hửng
điều đó có nghĩa là mọi việc vẫn còn đang nằm trong tầm khống chế của họ.
Vậy chế độ
tiền tệ pháp định có gì không tốt? Không phải là chúng ta đã sống dưới chế độ
tiền tệ pháp định này suốt 30 năm rồi đó sao? Kinh tế không phải là đang phát
triển như thường đó sao?
Câu trả lời
của John Exeter - nguyên Phó Chủ tịch ngân hàng New York thuộc Cục Dự trữ Liên
bang Mỹ và phó chủ tịch tập đoàn Hoa Kỳ là:
Với một hệ
thống như vậy, chẳng có quốc gia nào cần phải chi trả tiền bảo đảm giá trị tiền
gửi cho một quốc gia khác. Bởi họ không chịu sự trói buộc của quy luật hối đoái
(tiền vàng). Chúng ta có thể dùng tiền giấy để mua dầu, bất kể với số lượng tiền
in là bao nhiêu. Các nhà kinh tế học đã xem thường khát vọng của nhân dân đối với
một loại tiền tệ có thể dùng làm tài sản tích trữ. Trên thực tế, họ đã từ chối
thừa nhận vàng là tiền tệ mà nhận định một cách võ đoán rằng vàng chỉ là một loại
hàng hoá phổ biến giống như chì hay kẽm và chẳng có vị trí gì trong hệ thống tiền
tệ. Thậm chí họ còn đề nghị Bộ tài chính ngừng tiếp tục tích trữ vàng đồng thời
từng bước bán tháo vàng ra thị trường. Sau khi xử lý xong vàng, họ bắt đầu tuỳ
ý xác định giá trị của tiền giấy. Họ đã không cho chúng la biết làm thế nào mà
thứ giấy nợ “IOU” luôn tăng trưởng với tốc độ thần kỳ lại có thể thực hiện được
chức năng bảo đảm giá trị tiền tệ. Hầu như họ hoàn toàn không ý thức được rằng
việc dùng loại tiền giấy có tốc độ phát triển sẽ có ngày tạo nên gánh nặng nợ nần.
Keynes và
Friedman chỉ là phiên bản của John Law trong thế kỷ 20. Họ đã xem thường luật
hoán đổi từ tiền giấy sang vàng và cố ý sử dụng bộ óc của các nhà kinh tế học
hoặc các chính trị gia cho việc in ấn tiền giấy. Họ cho rằng, điều này có thể
đi ngược với quy luật tự nhiên, tạo nên của cải theo cách bịa đặt dối trá, triệt
tiêu chu kỳ thương mại, đảm bảo toàn dân luôn có việc làm và xã hội mãi mãi phồn
thịnh.
Điều này
cũng có nghĩa rằng một số nhà kinh tế học nào đó đã đặt ra chính sách theo
khuynh hướng chính trị riêng mà không cần mạo hiểm tiền bạc của bản thân. Họ sử
dùng trí tuệ kiểu John Law thời đó, nghĩa là uyên bác, tuỳ ý quyết định chính
sách tiền tệ, tài chính, thu thuế, thương mại, giá cả, thu nhập, và thậm chí
còn nói cho chúng ta biết rằng những điều này là tốt nhất cho chúng ta. Như vậy
họ đã điều khiển nền kinh tế vi mô của chúng ta.
Đại đa số
các nhà kinh tế học hiện nay đều là những người được các học trò của Keynes “bồi
dưỡng” và “huấn luyện”, bao gồm cả những người đã giành được giải thưởng Nobel
như Paul A. Samuelson - tác giả của cuốn giáo trình “Kinh tế học” nổi tiếng.
Trong giáo trình của ông đầy rẫy những công thức số học và các loại biểu đồ.
Nhưng khi đọc đến quan điểm của ông đối với vàng, người ta mới phát hiện ra rằng,
cách nhìn của ông ta hầu như chẳng có giá trị lịch sử nào mà tỏ ra hết sức nông
cạn. Ông là một trường hợp điển hình của giới học thuật thế kỷ 20 - những người
coi thường việc nghiên cứu lịch sử của vàng, hoặc là vì một số lý do nào đó mà
chọn cách cố ý xem thường.
Trong một
bài bình luận nổi tiếng về vàng sau năm 1968, Samuelson đã nói thế này: “Cuối
cùng, vàng đã bị tiền tệ hoá hoàn toàn. Giá trị của nó hoàn toàn do quan hệ
cung cầu quyết định, cũng chẳng khác gì đồng, lúa mạch, bạc hay muối cả. Nếu
như đã mua vàng với giá 55 đô-la Mỹ/ounce và bán ra với giá 68 đô-la Mỹ/ounce,
một tù trưởng của vùng Trung Đông nhất định sẽ kiếm được bộn tiền. Nhưng nếu
như mua vào với giá 55 đô-la Mỹ mà bán tháo ra với giá 38,5 đô la thậm chí là
33 đô-la Mỹ/ounce thì đảm bảo rằng ông ta sẽ thua đến mức chẳng còn áo mà mặc”.
Samuelson
tin rằng, một khi vàng bị hất văng khỏi hệ thống tiền tệ thì nhu cầu đối với
vàng chỉ hạn chế trong mấy loại nhu cầu công nghiệp rất nhỏ như ngành trang sức.
Cho nên, ngày 15 tháng 8 năm 1971, sau khi Nixon đóng cửa vàng, hiệp ước
Bretton Woods không còn hiệu lực thì vàng đã không còn là tiền tệ nữa, và cũng
chẳng còn ai cần đến vàng nữa. Đến năm 1973, vị giáo sư này cho rằng, mức 75
đô-la Mỹ/ounce vàng năm 1972 nhất định sẽ không duy trì được lâu cuối cùng giá
vàng có thể sẽ rớt xuống mức dưới 35 đô-la Mỹ/ounce. Điều khiến vị giáo sư này
ngọng miệng chính là bảy năm sau, giá vàng đã tăng vọt lên đến 850 đô-la Mỹ/ounce.
May là
Samuelson không giữ chức giám đốc Quỹ đối xung của phố Wall, nếu không thì thứ
mà ông ta mất đã không chỉ là quần áo trên người.
7. Cảnh
báo cấp I: Năm 2004, Rothschild rút lui khỏi hệ thống định giá vàng
Nguồn gốc của
mọi quyền lực đều thể hiện ở quyền định giá thông qua quá trình khống chế giá cả
để thực hiện phương thức phân phối của cải theo kiểu “lợi mình, hại người”. Việc
tranh giành quyền định giá cũng khốc liệt như sự tranh giành địa vị đế vương vậy
và luôn chứa đầy những âm mưu và dối trá. Hiếm khi giá cả được sinh ra một cách
tự nhiên, phía chiếm ưu thế vốn dĩ không từ bất cứ thủ đoạn nào để bảo vệ lợi
ích của mình, và điều này chẳng có sự khác biệt nào về bản chất so với chiến
tranh. Để bàn về vấn đề giá cả, chúng ta cần phải liên tưởng tới việc nghiên cứu
chiến tranh nhằm tiếp cận được hình ảnh gốc của sự việc. Đặt ra giá cả, lật ngược
giá cả, bóp méo giá cả, thao túng giá cả đều là kết quả của những cuộc đọ sức
quyết liệt lặp đi lặp lại giữa những người trong cuộc. Nếu không có yếu tố con
người làm bối cảnh tham chiếu thì chúng ta không thể hiểu rõ quỹ đạo hình thành
giá cả.
Điều thú vị
là cả người ngồi ở vị trí ông chủ phát hiệu lệnh lẫn số đông những kẻ phục tùng
đều có cảm giác đau như hoạn. Xét từ góc độ vàng, ai khống chế được các nhà
buôn vàng lớn nhất thế giới thì người đó khống chế được giá vàng. Khống chế là
việc làm cho các nhà buôn vàng chủ động hoặc bị động chấp nhận sự sắp đặt cấp
cao hơn về quyền lực vì lợi ích hoặc do bị ép buộc.
Trong suốt gần
200 năm kể từ cuộc chiến tranh Napoleon năm 1815, gia tộc Rothschild đã đoạt được
quyền định giá vàng. Thể chế định giá vàng hiện đại được ban bố vào ngày 12 tháng
9 năm 1919, khi năm đại biểu của các tập đoàn tài chính lớn tụ tập ở ngân hàng
Rothschild. Lúc này, giá vàng được định ở mức 4 bảng 18 shiling 9 penny, tức
khoảng 7,5 đô-la Mỹ. Đến năm 1968, việc định giá vàng vẫn không hề thay đổi, dù
đã sử dụng đồng đô-la Mỹ để xác định mức giá vàng. Ngoài gia tộc Rothschild còn
có các đại diện của Mocatta & Goldsmid, Pixley & Abell, Samuel Montagu
& Co., Sharps Wilkins tham gia vào việc định giá vàng lần thứ nhất. Sau đó,
trong nhiều năm liền, gia tộc Rothschild đóng vai trò Chủ tịch kiêm đơn vị chủ
trì triệu tập cuộc họp. Kể từ đó, năm vị đại biểu họp mặt hai lần một ngày ở
ngân hàng Rothschild để thảo luận về giá vàng. Bắt đầu phiên giao dịch, chủ tịch
ra giá vàng, sau đó giá này được chuyển đến các sàn giao dịch bằng điện thoại.
Sau khi xác định được lượng nhu cầu và căn cứ vào giá thoả thuận giữa bên mua
và bán, chủ tịch tuyên bố giá vàng được “xác lập” (The London Good Fix).
Chế độ định
giá vàng này được vận hành liên tục mãi đến năm 2004.
Ngày 14
tháng 4 năm 2004, dòng họ Rothschild đột nhiên rút lui khỏi hệ thống định giá
vàng London. Tin này lập tức làm chấn động các nhà đầu tư trên toàn thế giới.
David Rothschild giải thích rằng: “thu nhập trong giao dịch (bao gồm cả vàng) của
chúng tôi ở thị trường hàng hoá London trong thời gian 5 năm qua đã giảm xuống
đến mức chưa bằng 1% tổng thu nhập của chúng tôi. Xét từ góc độ phân tích chiến
lược, kinh doanh vàng đã không còn là nghiệp vụ chính của chúng tôi nữa, vì thế
chúng tôi quyết định rút lui khỏi thị trường này”.
Ngày 16
tháng 4, tờ Financial Times của Anh lập tức phụ hoạ rằng, “Đúng như Keynes đã từng
nói, “di tích dã man” này (vàng) đang dần trở thành bụi trần của lịch sử. Việc
gia tộc Rothschild rút lui khỏi thị trường vàng đã khiến cho Ngân hàng Pháp “chảnh”
là thế cũng phải cân nhấc kho dự trữ vàng của mình. Và trong vai trò là một sản
phẩm đầu tư, vàng đang đến hồi giãy chết”.
Không chỉ vậy,
ngày 1 tháng 6, tập đoàn AIG - một tên tuổi lẫy lừng trên thị trường giao dịch
bạc trắng - đã tuyên bố rút lui khỏi hệ thống định giá bạc, tự nguyện giáng cấp
xuống làm nhà giao dịch bình thường. Cả hai việc này đều có vẻ hết sức kỳ quặc.
Lẽ nào dòng
họ Rothschild đã thật sự xem nhẹ vàng? Nếu không phải thế thì tại sao họ không
rút lui vào thời điểm giá vàng xuống đến điểm thấp nhất trong lịch sử vào năm
1999 mà lại phải rửa tay gác kiếm vào thời điểm giá vàng bạc đang thịnh như năm
2004?
Một khả năng
khác chính là giá vàng bạc cuối cùng sẽ mất kiểm soát, và một khi âm mưu khống
chế giá vàng và bạc bị bại lộ thì người nắm quyền khống chế sẽ trở thành kẻ thù
chung của thế giới. Cắt đứt mối quan hệ với vàng một cách đột ngột, gia tộc
Rothschild sẽ tránh được sự nguyền rủa của người đời nếu như mười năm sau giá
vàng bạc có trục trặc.
Đừng quên rằng,
tứ trước tới nay, gia tộc Rothschild luôn nắm giữ mạng lưới tình báo chiến lược
có hiệu suất cao nhất, bí mật nhất trên thế giới. Nhà Rothschild nắm giữ những
nguồn thông tin quý giá nhất, tuyệt mật nhất. Mưu cao kế hiểm cộng thêm nguồn
tài chính khổng lồ cũng như khả năng thu thập, phân tích thông tin một cách hiệu
quả đã giúp cho gia tộc này nắm giữ số phận của cả thế giới từ hơn 200 năm qua.
Việc gia tộc
này đột ngột tuyên bố rút lui khỏi thị trường vàng - một thị trường béo bở mà họ
đã lao tâm khổ tứ trong suốt 200 năm qua - đã không còn là chuyện bình thường.
8. Ngày tận
thế của nền kinh tế bong bóng
Để tạo nên sự
bất mãn của quốc tế đối với Trung Quốc đồng thời hòng che dấu mưu đồ tăng giá dầu
để kích thích nhu cầu đối với đồng đô-la Mỹ, trục phố Wall - London khăng khăng
cho rằng, nguyên nhân của việc mất cân đối trong cung cầu giá dầu trong thời
gian gần đây xuất phát từ sự phát triển quá nóng của nền kinh tế Trung Quốc. Hệt
như năm 1973, giới tài phiệt trục phố Wall - London đã tăng giá dầu lên 400% để
kích thích nhu cầu đối với đồng đô-la Mỹ đồng thời đổ toàn bộ trách nhiệm về việc
tăng giá dầu cho chính sách cấm vận dầu mỏ của các quốc gia Trung Đông.
Từ những năm
70, do vàng bị “giam lỏng”, thị trường chứng khoán thế giới và thị trường hàng
hoá chủ lực tăng giảm ngược chiều nhau. Thập niên 70, thị trường hàng hoá chủ lực
cực kỳ sôi động, trong khi thị trường chứng khoán lại suy sụp trong thời gian
đó. Trong suốt 18 năm liền kể từ đầu thập niên 80, thị trường chứng khoán sa
sút mạnh, nhưng lúc này, thị trường hàng hoá chủ lực lại tăng trưởng mạnh mẽ.
Tuy nhiên, bắt
đầu từ năm 2001, cùng với sự phát triển mạnh mẽ của thị trường hàng hoá chủ lực,
các thị trường khác như cổ phiếu, cho vay tín dụng, bất động sản, thị trường
tài chính phái sinh cũng đồng bộ tăng trưởng mạnh. Xét ở khía cạnh bề ngoài thì
có vẻ như đồng đô-la Mỹ tăng giá trị, nhưng trên thực tế, do công nợ đồng đô-la
tạo ra mà mọi khoản nợ đều đến hạn chi trả lãi suất, kết quả là, chỉ cần tăng
thêm sức chứa, chiếc vò đựng cả thị trường hàng hoá chủ lực lẫn thị trường chứng
khoán có thể tiêu hoá hết lượng đô-la dư thừa. Tuy nhiên, vì quá nhiều nên đồng
đô-la Mỹ đã tràn ra ngoài chiếc vò này.
Vấn đề là
làm thế nào để tìm được một chiếc vò có sức chứa lớn như thế. Các thiên tài phố
Wall bắt đầu bàn luận về khái niệm dung lượng vô hạn của thị trường tài chính
phái sinh. Họ liên tiếp tung ra thị trường các “sản phẩm tài chính” mới với số
lượng lớn. Họ không chỉ nghĩ đến tiền tệ, công trái, hàng hoá, cổ phiếu, tín dụng,
lãi suất, mà còn sáng tạo ra những trò chơi mới và trên cơ sở lý luận này, họ
có thể đem sự tốt xấu của mỗi ngày trong một năm tương lai rồi dán nhãn đồng
đô-la Mỹ lên để bán ra thị trường.
Tương tự, họ
có thể đem mỗi giở trong mỗi ngày của 100 năm trong tương lai thế giới, thậm
chí là cả động đất, núi lửa, lũ lụt, hạn hán, hoả hoạn, bệnh dịch truyền nhiễm,
tai nạn giao thông, hôn nhân ma chay… để biến thành “sản phẩm tài chính phái
sinh” và đàng hoàng giao dịch trên thị trường tài chính. Vì vậy, có thể nói rằng,
thị trường tài chính phái sinh chính là thứ sản phẩm mang tính vô hạn định. Điều
thú vị là, luận điệu này ít nhiều có nét tương đồng với sự cố Y2K vốn được đẩy
đến cực điểm trong năm 1999, khi các nhà phân tích phố Wall tuyên bố một cách
chắc nịch rằng cần phải phân phối địa chỉ IP đến mỗi hạt cát trên trái đất này.
Trong khi
người đời đang lên cơn “sốt” cao như vậy thì bão táp tài chính cũng đã cận kề
trong gang tấc.
Giá vàng
tăng mạnh và liên tục sẽ vô tình đẩy lãi suất nợ vay dài hạn của Mỹ lên cao, do
các nhà ngân hàng quốc tế đã chào bán ra thị trường tài chính hợp đồng “bảo hiểm
lãi suất” lên đến mấy trăm nghìn tỉ đô-la Mỹ, đảm bảo lãi suất dài hạn sẽ không
tăng lên, nhưng một khi lãi suất nợ dài hạn bị ép bởi giá vàng thì các nhà ngân
hàng quốc tế sẽ để lộ mưu đồ của họ do lòng tham của bản thân tạo ra.
Mục tiêu đầu
tiên sẽ là thị trường sản phẩm tài chính phái sinh - quả bong bóng phình to
siêu cấp của “lãi suất vượt kỳ“ trị giá 74 nghìn tỉ đô-la Mỹ (chỉ tính riêng số
liệu được ngân hàng thương nghiệp Mỹ công bố). Các doanh nghiệp được nhà nước bảo
trợ với 3,5% vốn trong tay sẽ chẳng khác nào trứng để đầu gậy. Với sự sụt giảm
giá vàng đột ngột, mức dao động lãi suất của công trái biến động khác thường,
phòng tuyến đối xung lãi suất yếu ớt của các doanh nghiệp được nhà nước bảo trợ
sẽ bị phá vỡ trước tiên, công trái ngắn hạn của các doanh nghiệp này trị giá 4
nghìn tỉ đô-la sẽ hoàn toàn mất đi tính thanh khoản chỉ trong thời gian ngắn.
Cùng rơi vào thảm cảnh còn có ông chủ của Morgan - kẻ chuyên lũng đoạn thị trường
tài chính phái sinh và thị trường phái sinh vàng. Như vậy, họ buộc phải tìm
cách xoay chuyển cục diện áp chế giá vàng và lãi suất dài hạn.
Việc thị trường
tài chính phái sinh sụp đổ trước tiên sẽ làm giảm tính thanh khoản của các sản
phẩm tài chính tiền tệ. Ngay khi ý đồ bán tháo các loại “hợp đồng bảo hiểm” hiện
có trong tay của các nhà đầu tư thế giới trớ - thành hiện thực, nền tảng của những
sản phẩm phái sinh như tiền tệ, công trái, hàng hoá, dầu mỏ, cổ phiếu sẽ đồng
thời bị ảnh hưởng theo hiệu ứng domino, tính thanh khoản của thị trường tài
chính quốc tế sẽ bùng phát khủng hoảng trên quy mô lớn. Để cứu vãn đống hoang
tàn của thị trường tài chính vốn hết thuốc chữa, Cục Dự trữ Liên bang Mỹ buộc
phải phát hành thêm đồng đô-la với số lượng lớn. Ngay khi mấy chục nghìn tỉ
đô-la được phát hành thêm như sóng biển dội vào nền kinh tế thế giới, thì nền
kinh tế trên toàn cầu sẽ rơi vào cảnh hỗn loạn.
Sau 30 năm kể
từ khi ngân hàng quốc tế âm mưu loại bỏ bản vị vàng, nước Mỹ đã dự chi 80% lượng
tích luỹ của thế giới. Đến nay, mỗi ngày nước Mỹ cần “hút” một khoản tích luỹ 2
tỉ đô-la từ cơ thể người dân các nước trên thế giới để có thể khiến cho “cỗ máy
kinh tế vĩnh cửu' của nước này vận hành tiếp được, tốc độ tăng của các khoản nợ
và lãi suất của nước Mỹ đã vượt rất xa sức tăng trưởng của nền kinh tế thế giới.
Đến khi mọi nguồn tích luỹ vàng bạc của các quốc gia bị rút sạch thì cũng chính
là ngày tận thế của nền tài chính thế giới. Liệu ngày này có đến hay không? Vấn
đề không phải là có hay không, mà là vào thời gian nào và cách thức ra sao.
Hệ thống
bong bóng đô-la Mỹ thoạt nhìn thì có vẻ đồ sộ nhưng hiểm hoạ của nó chính là nằm
ở hai chữ lòng tin. Và vàng chính là ngón đòn “nhất dương chỉ” đã điểm trúng
huyệt vị này.
0 comments:
Post a Comment